Changes
in reading habits
Những
thay đổi trong thói quen đọc
What are the implications of the way we
read today?
Những hàm ý gì trong cách chúng ta đọc
ngày nay?
Look
around on your next plane trip. The iPad is the new pacifier for babies and
toddlers. Younger school-aged children read stories on smartphones; older kids
don’t read at all, but hunch over video games. Parents and other passengers
read on tablets or skim a flotilla of email and news feeds. Unbeknown to most
of us, an invisible, game-changing transformation links everyone in this
picture: the neuronal circuit that underlies the brain’s ability to read is
subtly, rapidly changing and this has implications for everyone from the
pre-reading toddler to the expert adult.
Hãy nhìn thử xung quanh trong chuyến bay
tiếp theo nhé. IPad như núm vú giả mới dành cho trẻ sơ sinh và trẻ tập đi.
Những đứa trẻ ở độ tuổi đi học đọc truyện trên điện thoại thông minh, những đứa
trẻ lớn hơn thì không đọc gì cả mà chỉ ham mê trò chơi điện tử. Cha mẹ và những
hành khách khác đọc trên máy tính bảng hoặc đọc lướt một loạt email và tin tức.
Hầu hết chúng ta đều không biết, một sự thay đổi về cách tiêu khiển vô hình liên kết tất cả mọi người
trong bức tranh này: mạch tế bào thần kinh làm cơ sở cho khả năng đọc của não
thay đổi một cách tinh vi, nhanh chóng và điều này có hàm ý đối với tất cả
mọi người từ trẻ mới biết đi tập đọc đến người lớn.
As
work in neurosciences indicates, the acquisition of literacy necessitated a new
circuit in our species’ brain more than 6,000 years ago. That circuit evolved
from a very simple mechanism for decoding basic information, like the number of
goats in one’s herd, to the present, highly elaborated reading brain. My
research depicts how the present reading brain enables the development of some
of our most important intellectual and affective processes: internalized
knowledge, analogical reasoning, and inference; perspective-taking and empathy;
critical analysis and the generation of insight. Research surfacing in many
parts of the world now cautions that each of these essential ‘deep reading’
processes may be under threat as we move into digital-based modes of reading.
Như nghiên cứu trong khoa học thần kinh
chỉ ra, việc đạt được khả năng đọc hiểu đòi hỏi một
mạch mới trong não của loài người chúng ta hơn 6.000 năm trước. Mạch
đó phát triển từ một cơ chế rất đơn giản để giải mã thông tin cơ bản,
như số lượng dê trong đàn, cho đến bây giờ là một bộ não đọc rất phức tạp.
Nghiên cứu mô tả cách bộ não đọc hiện tại cho phép phát triển một số quá trình
trí tuệ và tình cảm quan trọng nhất của chúng ta: kiến thức nội
tại, lý luận loại suy và suy luận; quan điểm và đồng cảm; phân tích phê bình và
tạo ra cái nhìn sâu sắc. Nghiên cứu ở nhiều nơi trên thế giới hiện cảnh báo
rằng mỗi quy trình đọc sâu thiết yếu này có thể bị đe dọa khi chúng ta chuyển
sang phương thức đọc
dựa trên kỹ thuật số.
This
is not a simple, binary issue of print versus digital reading and technological
innovations. As MIT scholar Sherry Turkle has written, we do not err as a
society when we innovate but when we ignore what we disrupt or diminish while
innovating. In this hinge moment between print and digital cultures, society
needs to confront what is diminishing in the expert reading circuit, what our
children and older students are not developing, and what we can do about it.
Đây không phải là một vấn đề đơn giản, nhị
phân của bản in so với việc đọc kỹ thuật số và đổi mới công nghệ. Như học giả Sherry
Turkle của MIT đã viết, chúng ta không phải là một xã hội sai lầm khi chúng ta
đổi mới mà là khi chúng ta bỏ qua những gì chúng ta làm gián đoạn hoặc giảm bớt
trong khi đổi mới. Trong thời điểm bản lề giữa nền văn hóa in ấn và kỹ thuật
số, xã hội cần phải đối mặt với những gì đang giảm dần trong mạch
đọc, những gì trẻ em và học sinh lớn tuổi của chúng ta không phát triển và điều chúng
ta có thể làm với nó.
We
know from research that the reading circuit is not given to human beings
through a genetic blueprint like vision or language; it needs an environment to
develop. Further, it will adapt to that environment’s requirements – from
different writing systems to the characteristics of whatever medium is used. If
the dominant medium advantages processes that are fast, multi-task oriented and
well-suited for large volumes of information, like the current digital medium,
so will the reading circuit. As UCLA psychologist Patricia Greenfield writes,
the result is that less attention and time will be allocated to slower,
time-demanding deep reading processes.
Qua nghiên cứu, chúng ta biết rằng mạch
đọc không được di truyền như thị giác hoặc ngôn ngữ; nó cần một môi trường để
phát triển. Hơn nữa, nó sẽ thích ứng với các yêu cầu của môi trường đó – từ các
hệ thống chữ viết khác nhau đến các đặc điểm mà các phương tiện được sử dụng.
Nếu phương tiện chiếm ưu thế có lợi thế cho các quá trình nhanh, định hướng đa
tác vụ và phù hợp với khối lượng thông tin lớn, như phương tiện kỹ thuật số
hiện tại, thì mạch đọc cũng vậy. Như nhà tâm lý học Patricia Greenfield của
UCLA viết, kết quả là sẽ có ít sự chú ý và thời gian cho các quá trình đọc sâu,
đọc kĩ.
Increasing
reports from educators and from researchers in psychology and the humanities
bear this out. English literature scholar and teacher Mark Edmundson describes
how many college students actively avoid the classic literature of the 19th and
20th centuries in favour of something simpler as they no longer have the
patience to read longer, denser, more difficult texts. We should be less
concerned with students’ ‘cognitive impatience’, however, than by what may
underlie it: the potential inability of large numbers of students to read with
a level of critical analysis sufficient to comprehend the complexity of thought
and argument found in more demanding texts.
Ngày càng có nhiều báo cáo từ các nhà giáo
dục và từ các nhà nghiên cứu tâm lý học và khoa học nhân văn đã xác nhận điều
này. Học giả và giáo viên văn học Anh tên là Mark Edmundson mô tả nhiều sinh
viên đại học chủ động tránh những tác phẩm văn học cổ điển của thế kỷ 19 và 20
mà thích những thứ đơn giản hơn vì họ không còn đủ kiên nhẫn để đọc những văn
bản dài hơn, khó hơn, dày đặc chữ hơn. Tuy nhiên, chúng ta nên bớt
quan tâm đến “sự thiếu kiên nhẫn trong nhận thức” của học sinh mà tập trung vào
điều có thể làm nền tảng cho nó: nhiều học sinh không có khả năng phân tích phê
bình đủ để hiểu được sự phức tạp của tư tưởng và lập luận trong các tài liệu
khó.
Multiple
studies show that digital screen use may be causing a variety of troubling
downstream effects on reading comprehension in older high school and college
students. In Stavanger, Norway, psychologist Anne Mangen and colleagues studied
how high school students comprehend the same material in different mediums.
Mangen’s group asked subjects questions about a short story whose plot had
universal student appeal; half of the students read the story on a tablet, the
other half in paperback. Results indicated that students who read on print were
superior in their comprehension to screen-reading peers, particularly in their
ability to sequence detail and reconstruct the plot in chronological order.
Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng việc sử dụng
màn hình kỹ thuật số có thể gây ra nhiều tác động khó lường sau này đối với khả
năng đọc hiểu ở học sinh lớn hơn bậc trung học và đại học. Tại Stavanger, Na
Uy, nhà tâm lý học Anne Mangen và các đồng nghiệp của cô đã nghiên cứu cách học
sinh trung học hiểu cùng một tài liệu thông qua các phương tiện khác nhau. Nhóm
của Mangen đặt câu hỏi cho các đối tượng về một câu chuyện ngắn có cốt truyện
thu hút toàn bộ học sinh; một nửa số học sinh đọc câu chuyện trên máy tính
bảng, nửa còn lại đọc sách bìa mềm. Kết quả chỉ ra rằng những sinh viên
đọc trên bản in có khả năng hiểu cao hơn so với các bạn đọc trên màn hình, đặc
biệt là ở khả năng xâu chuỗi các chi tiết và tái hiện lại cốt truyện
theo trình tự thời gian.
Ziming
Liu from San Jose State University has conducted a series of studies which
indicate that the ‘new norm’ in reading is skimming, involving word-spotting
and browsing through the text. Many readers now use a pattern when reading in
which they sample the first line and then word-spot through the rest of the
text. When the reading brain skims like this, it reduces time allocated to deep
reading processes. In other words, we don’t have time to grasp complexity, to
understand another’s feelings, to perceive beauty, and to create thoughts of
the reader’s own.
Ziming Liu từ Đại học Bang San Jose đã
thực hiện một loạt nghiên cứu chỉ ra rằng ‘tiêu chuẩn mới’ trong việc
đọc là đọc lướt, liên quan đến việc dò từ và xem lướt qua văn bản.
Nhiều độc giả hiện sử dụng một kiểu đọc, trong đó họ thử đọc từ dòng đầu tiên
và sau đó là dò từ qua phần còn lại của văn bản. Khi não đọc lướt như vậy, nó làm
giảm thời gian phân bổ cho quá trình đọc sâu. Nói cách khác, chúng ta không có
thời gian để nắm bắt nhanh sự phức tạp, để hiểu cảm xúc của người khác, cảm
nhận vẻ đẹp và tạo ra suy nghĩ của riêng người đọc.
The possibility that critical analysis, empathy and
other deep reading processes could become the unintended ‘collateral damage’ of
our digital culture is not a straightforward binary issue about print versus
digital reading. It is about how we all have begun to read o various mediums
and how that changes not only what we read, but also the purposes for which we
read. Nor is it only about the young. The subtle atrophy of critical analysis
and empathy affects us all equally. It affects our ability to navigate a
constant bombardment of information. It incentivizes a retreat to the most
familiar stores of unchecked information, which require and receive no
analysis, leaving us susceptible to false information and irrational ideas.
Khả năng phân tích phê bình, sự đồng cảm
và các quy trình đọc sâu khác có thể trở thành “thiệt hại ngoài dự kiến” đối
với nền văn hóa kỹ thuật số của chúng ta không phải là một vấn đề hệ nhị phân
đơn giản về bản in và việc đọc kỹ thuật số. Đó là về cách tất cả chúng ta bắt
đầu đọc trên nhiều phương tiện khác nhau và cách nó thay đổi không chỉ những gì
chúng ta đọc mà còn cả mục đích chúng ta đọc. Nó cũng không phải chỉ nói về thế
hệ trẻ. Sự suy giảm không rõ ràng trong sự phân tính phê bình và sự đồng cảm
ảnh hưởng đồng đều lên chúng ta. Nó ảnh hưởng đến khả năng của chúng ta trong
việc điều hướng những luồng thông tin ào ạt. Nó khuyến khích việc lui về những
kho thông tin quen thuộc nhất chưa được kiểm duyệt, vốn không yêu cầu và không
nhận được sự phân tích, khiến chúng ta dễ bị ảnh hưởng bởi những thông tin sai
lệch và những ý tưởng phi lý.
There’s
an old rule in neuroscience that does not alter with age: use it or lose it. It
is a very hopeful principle when applied to critical thought in the reading
brain because it implies choice. The story of the changing reading brain is
hardly finished. We possess both the science and the technology to identify and
redress the changes in how we read before they become entrenched. If we work to
understand exactly what we will lose, alongside the extraordinary new
capacities that the digital world has brought us, there is as much reason for
excitement as caution.
Có một quy luật cũ trong khoa học thần
kinh mà không thay đổi theo tuổi tác: sử dụng nó hoặc mất nó. Đó là một nguyên
tắc rất triển vọng khi áp dụng cho tư duy phản biện trong bộ não đọc vì nó ngụ
ý sự lựa chọn. Câu chuyện thay đổi bộ não đọc thì gần như không kết thúc. Chúng
ta sở hữu cả khoa học và công nghệ để xác định và khắc phục những thay đổi
trong cách chúng ta đọc trước khi chúng trở nên ăn sâu vào chúng ta. Nếu chúng ta cố gắng hiểu chính xác
những gì chúng ta sẽ mất, cùng với những khả năng mới phi thường mà thế giới kỹ
thuật số đã mang lại cho chúng ta, thì càng có nhiều lý do để phấn khích cũng
như thận trọng.

0 Nhận xét