Climate
change reveals ancient artefacts in Norway’s glaciers
A.
Well above the treeline in Norway’s highest mountains, ancient fields of ice
are shrinking as Earth’s climate warms. As the ice has vanished, it has been
giving up the treasures it has preserved in cold storage for the last 6,000
years – items such as ancient arrows and skis from Viking Age* traders. And
those artefacts have provided archaeologists with some surprising insights into
how ancient Norwegians made their livings.
Phía trên con đường ở những ngọn núi cao
nhất của Na Uy, những cánh đồng băng cổ đại đang thu hẹp lại khi khí hậu Trái
đất ấm lên. Khi băng tan, nó để lộ những kho báu mà nó đã bảo quản trong kho
lạnh trong 6.000 năm qua – những vật phẩm như mũi tên cổ và ván trượt từ các
thương nhân Thời Viking. Và những đồ tạo tác đó đã cung cấp cho các nhà khảo cổ
học thêm những hiểu biết đáng ngạc nhiên về cách người Na Uy cổ đại kiếm sống.
B.
Organic materials like textiles and hides are relatively rare finds at
archaeological sites. This is because unless they’re protected from the microorganisms
that cause decay, they tend not to last long. Extreme cold is one reliable way
to keep artefacts relatively fresh for a few thousand years, but once thawed
out, these materials experience degradation relatively swiftly.
Các vật liệu hữu cơ như vải và da sống
tương đối hiếm được tìm thấy tại các địa điểm khảo cổ. Điều này là do nếu chúng
không được bảo vệ khỏi các vi sinh vật gây thối rữa, chúng thường không tồn tại
lâu. Nhiệt độ cực lạnh là một cách tốt để giữ cho các đồ tạo tác tương đối
nguyên vẹn trong vài nghìn năm, nhưng sau khi băng tan, những đồ vật này
bị xuống cấp tương đối nhanh chóng.
With
climate change shrinking ice cover around the world, glacial archaeologists
need to race the clock to find newly revealed artefacts, preserve them, and
study them. If something fragile dries and is windblown it might very soon be
lost to science, or an arrow might be exposed and then covered again by the
next snow and remain well-preserved. The unpredictability means that glacial
archaeologists have to be systematic in their approach to fieldwork.
Với tình trạng biến đổi khí hậu, lớp băng
bao phủ trên khắp thế giới ngày càng thu hẹp, các nhà khảo cổ học về bang cần
phải chạy đua với thời gian để tìm ra những đồ tạo tác, bảo quản và nghiên cứu
chúng. Nếu một thứ gì đó mỏng manh bị khô và bị gió thổi bay, nó có
thể bị thất lạc không thể nghiên cứu, hoặc một mũi tên có thể lộ ra và sau đó
lại được bao phủ bởi lớp tuyết tiếp theo và vẫn được bảo quản tốt. Do mọi thứ
khó đoán trước được, các nhà khảo cổ học về băng phải có hệ thống trong cách
tiếp cận điều tra thực địa.
C.
Over a nine-year period, a team of archaeologists, which included Lars Pilø of
Oppland County Council, Norway, and James Barrett of the McDonald Institute for
Archaeological Research, surveyed patches of ice in Oppland, an area of
south-central Norway that is home to some of the country’s highest mountains.
Reindeer once congregated on these ice patches in the later summer months to
escape biting insects, and from the late Stone Age**, hunters followed. In
addition, trade routes threaded through the mountain passes of Oppland, linking
settlements in Norway to the rest of Europe.
Trong khoảng thời gian chín năm, một nhóm
các nhà khảo cổ học, bao gồm Lars Pilø của Hội đồng Hạt Oppland, Na Uy, và James
Barrett của Viện Nghiên cứu Khảo cổ học McDonald, đã khảo sát các mảng băng ở
Oppland, một khu vực thuộc trung nam Na Uy là nơi có một số ngọn núi cao nhất
của đất nước. Những con tuần lộc đã từng tụ tập trên những mảng băng
giá này vào những tháng cuối hè để trốn côn trùng cắn, và từ cuối thời kỳ đồ đá
**, những người thợ săn cũng đi con đường này. Ngoài ra, các tuyến đường thương
mại xuyên qua các đèo núi của Oppland, nối các khu định cư ở Na Uy với phần còn
lại của châu Âu.
The
slow but steady movement of glaciers tends to destroy anything at their bases,
so the team focused on stationary patches of ice, mostly above 1,400 metres.
That ice is found amid fields of frost-weathered boulders, fallen rocks, and
exposed bedrock that for nine months of the year is buried beneath snow.
Sự di chuyển chậm nhưng ổn định của các
sông băng có thể phá hủy bất cứ thứ gì dưới chân băng, vì vậy nhóm nghiên cứu
tập trung vào các mảng băng đứng yên, chủ yếu ở độ cao hơn 1.400 mét. Băng
đó được tìm thấy giữa những cánh đồng đá phong sương giá, những khối đá rơi và
nền đá lộ thiên mà trong chín tháng của năm bị chôn vùi dưới lớp tuyết.
‘Fieldwork
is hard work – hiking with all our equipment, often camping on permafrost – but
very rewarding. You’re rescuing the archaeology, bringing the melting ice to
wider attention, discovering a unique environmental history and really
connecting with the natural environment,’ says Barrett.
‘Thực địa là công việc khó khăn – phải đi
bộ đường dài với tất cả các thiết bị, và thường cắm trại trên lớp băng vĩnh cửu
– nhưng điều này rất bổ ích. Barrett nói: Bạn đang giải cứu ngành khảo cổ
học, giúp nhiều người biết đến việc băng tan, khám phá lịch sử môi trường độc
đáo và thực sự kết nối với môi trường tự nhiên.
D.
At the edges of the contracting ice patches, archaeologists found more than
2,000 artefacts, which formed a material record that ran from 4,000 BCE to the
beginnings of the Renaissance in the 14th century. Many of the artefacts are
associated with hunting. Hunters would have easily misplaced arrows and they
often discarded broken bows rather than take them all the way home. Other items
could have been used by hunters traversing the high mountain passes of Oppland:
all-purpose items like tools, skis, and horse tack.
Tại các rìa của các mảng băng vỡ, các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy hơn 2.000 đồ tạo tác, tạo thành một hồ sơ tài liệu kéo
dài từ năm 4.000 trước Công nguyên đến đầu thời kỳ Phục hưng ở thế kỷ 14. Nhiều
đồ tạo tác gắn liền với săn bắn. Những người thợ săn đã dễ dàng bỏ quên mũi
tên và họ thường vứt bỏ những chiếc cung bị hỏng hơn là mang chúng về
nhà. Những vật dụng khác có thể đã được sử dụng bởi những người thợ săn băng
qua những con đèo cao của Oppland: những vật dụng đa năng như dụng cụ, ván
trượt và xe ngựa.
E.
Barrett’s team radiocarbon-dated 153 of the artefacts and compared those dates
to the timing of major environmental changes in the region – such as periods of
cooling or warming – and major social and economic shifts – such as the growth
of farming settlements and the spread of international trade networks leading
up to the Viking Age. They found that some periods had produced lots of
artefacts, which indicates that people had been pretty active in the mountains
during those times. But there were few or no signs of activity during other
periods.
Nhóm nghiên cứu của Barrett xác định niên
đại bằng carbon phóng xạ 153 trong số các đồ tạo tác và so sánh những niên đại
đó với thời gian của những thay đổi lớn về môi trường trong khu vực – chẳng hạn
như thời kỳ lạnh đi hoặc ấm lên – và những thay đổi kinh tế và xã hội lớn –
chẳng hạn như sự phát triển của các khu định cư nông nghiệp và sự lan rộng của
các mạng lưới thương mại quốc tế dẫn đến Thời đại Viking. Họ phát hiện ra rằng
một số thời kỳ đã tạo ra rất nhiều đồ tạo tác, điều này cho thấy rằng con người
đã hoạt động khá tích cực ở vùng núi này trong thời gian đó. Nhưng có rất ít
hoặc không có dấu hiệu hoạt động trong các thời kỳ khác.
F.
What was surprising, according to Barrett, was the timing of these periods.
Oppland’s mountains present daunting terrain and in periods of extreme cold,
glaciers could block the higher mountain passes and make travel in the upper
reaches of the mountains extremely difficult. Archaeologists assumed people
would stick to lower elevations during a time like the Late Antique Little Ice
Age, a short period of deeper-than-usual cold from about 536-600 CE. But it
turned out that hunters kept regularly venturing into the mountains even when
the climate turned cold, based on the amount of stuff they had apparently
dropped there.
Theo Barrett điều đáng ngạc nhiên là thời
gian của những giai đoạn này. Các ngọn núi của Oppland có địa hình hiểm
trở và trong thời kỳ cực kỳ lạnh giá, các sông băng có thể chặn các đèo
cao hơn và khiến việc đi lại ở các vùng thượng lưu của những ngọn núi trở nên
vô cùng khó khăn. Các nhà khảo cổ học cho rằng con người sẽ bám vào các độ cao
thấp hơn trong một thời gian như thời kì tiểu băng hà muộn, một khoảng thời
gian ngắn lạnh hơn bình thường từ khoảng 536-600 Công Nguyên. Nhưng dựa trên số
lượng đồ đạc mà họ đã đánh rơi ở đó, hóa ra những người thợ săn vẫn thường
xuyên mạo hiểm vào
vùng núi ngay cả khi khí hậu trở lạnh.
‘Remarkably,
though, the finds from the ice may have continued through this period, perhaps
suggesting that the importance of mountain hunting increased to supplement
failing agricultural harvests in times of low temperatures,’ says Barrett. A
colder turn in the Scandinavian climate would likely have meant widespread crop
failures, so more people would have depended on hunting to make up for those
losses.
Barrett nói: “Đáng chú ý là, những phát
hiện từ băng có thể vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ này, có lẽ cho thấy tầm
quan trọng của việc săn bắn trên núi càng tăng lên để bổ sung cho những vụ thu
hoạch nông nghiệp thất bát trong thời kỳ nhiệt độ thấp. Khí hậu Scandinavia trở
nên lạnh hơn có thể đồng nghĩa với việc mất mùa trên diện rộng, vì vậy nhiều
người sẽ phụ thuộc vào săn bắn để bù đắp cho những thiệt hại đó.
G.
Many of the artefacts Barrett’s team recovered date from the beginning of the
Viking Age, the 700s through to the 900s CE. Trade networks connecting
Scandinavia with Europe and the Middle East were expanding around this time.
Although we usually think of ships when we think of Scandinavian expansion,
these recent discoveries show that plenty of goods travelled on overland
routes, like the mountain passes of Oppland. And growing Norwegian towns, along
with export markets, would have created a booming demand for hides to fight off
the cold, as well as antlers to make useful things like combs. Business must
have been good for hunters.
Nhiều đồ tạo tác mà nhóm của Barrett khôi
phục được có niên đại từ đầu Thời đại Viking, những năm 700 đến những năm 900
Công nguyên. Mạng lưới thương mại kết nối Scandinavia với châu Âu và Trung Đông
đã được mở rộng trong khoảng thời gian này. Mặc dù chúng ta thường nghĩ đến
những con tàu khi nghĩ về sự mở rộng của Scandinavia, nhưng những khám phá gần
đây cho thấy rằng rất nhiều hàng hóa được vận chuyển trên các tuyến đường bộ,
chẳng hạn như các con đường đèo ở Oppland. Và các thị trấn Na Uy ngày càng phát
triển, cùng với thị trường xuất khẩu, sẽ tạo ra nhu cầu bùng nổ về da
sống để chống lại cái lạnh, cũng như gạc để làm những thứ hữu ích như lược.
Công việc kinh doanh hẳn là tốt cho những người thợ săn.
H.
Norway’s mountains are probably still hiding a lot of history – and prehistory
– in remote ice patches. When Barrett’s team looked at the dates for their
sample of 153 artefacts, they noticed a gap with almost no artefacts from about
3,800 to 2,200 BCE. In fact, archaeological finds from that period are rare all
over Norway. The researchers say that could be because many of those artefacts
have already disintegrated or are still frozen in the ice. That means
archaeologists could be extracting some of those artefacts from retreating ice
in years to come.
Những ngọn núi của Na Uy có lẽ vẫn còn ẩn
chứa rất nhiều lịch sử – và thời tiền sử – trong những mảng băng xa xôi. Khi
nhóm của Barrett xem xét niên đại cho 153 đồ tạo tác của họ, họ nhận thấy hầu
như không có đồ tạo tác nào từ khoảng 3.800 đến 2.200 trước Công nguyên. Trên
thực tế, những phát hiện khảo cổ học từ thời kỳ đó rất hiếm trên khắp Na Uy.
Các nhà nghiên cứu nói rằng điều đó có thể là do nhiều đồ tạo tác trong số đó
đã bị phân hủy hoặc vẫn còn trong băng. Điều đó có nghĩa là các nhà
khảo cổ có thể phát hiện một số đồ tạo tác đó từ lớp băng lùi dần
trong nhiều năm tới.

0 Nhận xét