The kākāpō
The kākāpō is a nocturnal,
flightless parrot that is critically endangered and one of New Zealand’s unique
treasures
Kākāpō
là loài vẹt sống về đêm, không biết bay, đang bị đe dọa nghiêm trọng và là một
trong những báu vật độc đáo của New Zealand
The kākāpō, also known as the
owl parrot, is a large, forest-dwelling bird, with a pale owl-like face. Up to
64 cm in length, it has predominantly yellow-green feathers, forward-facing
eyes, a large grey beak, large blue feet, and relatively short wings and tail.
It is the world’s only flightless parrot, and is also possibly one of the
world’s longest-living birds, with a reported lifespan of up to 100 years.
Vẹt
kākāpō, còn được gọi là vẹt cú, là một loài chim lớn sống trong rừng, với khuôn
mặt nhợt nhạt giống cú. Dài tới 64 cm, chúng có bộ lông chủ yếu màu vàng lục,
mắt hướng về phía trước, mỏ lớn màu xám, bàn chân lớn màu xanh lam, cánh và
đuôi tương đối ngắn. Đây là loài vẹt không biết bay duy nhất trên thế giới, và
cũng có thể là một trong những loài chim sống lâu nhất thế giới, với tuổi thọ
được ghi nhận lên tới 100 năm.
Kākāpō are solitary birds and
tend to occupy the same home range for many years. They forage on the ground
and climb high into trees. They often leap from trees and flap their wings, but
at best manage a controlled descent to the ground. They are entirely
vegetarian, with their diet including the leaves, roots and bark of trees as
well as bulbs, and fern fronds.
Vẹt
kākāpō là loài chim sống đơn độc và thường sống ở cùng một khu vực trong nhiều
năm. Chúng kiếm ăn trên mặt đất và leo trèo lên cây cao. Chúng thường nhảy từ
trên cây xuống và vỗ cánh, nhưng tốt nhất là nên kiểm soát việc hạ cánh xuống
đất. Vẹt kākāpō hoàn toàn ăn chay, với chế độ ăn bao gồm lá, rễ và vỏ cây, cũng
như củ và lá dương xỉ.
Kākāpō breed in summer and
autumn, but only in years when food is plentiful. Males play no part in
incubation or chick-rearing – females alone incubate eggs and feed the chicks.
The 1-4 eggs are laid in soil, which is repeatedly turned over before and
during incubation. The female kākāpō has to spend long periods away from the
nest searching for food, which leaves the unattended eggs and chicks
particularly vulnerable to predators.
Vẹt
kākāpō sinh sản vào mùa hè và mùa thu, nhưng chỉ vào những năm có nguồn thức ăn
dồi dào. Vẹt trống không tham gia vào việc ấp trứng hay nuôi con - chỉ có vẹt
mái ấp trứng và cho chim non ăn. Từ 1 đến 4 quả trứng được đẻ trong đất, đất
được đảo liên tục trước và trong quá trình ấp. Vẹt kākāpō mái phải dành nhiều
thời gian xa tổ để tìm kiếm thức ăn, khiến trứng và chim non không được chăm
sóc đặc biệt dễ bị động vật săn mồi tấn công.
Before humans arrived, kākāpō
were common throughout New Zealand’s forests. However, this all changed with
the arrival of the first Polynesian settlers about 700 years ago. For the early
settlers, the flightless kākāpō was easy prey. They ate its meat and used its
feathers to make soft cloaks. With them came the Polynesian dog and rat, which
also preyed on kākāpō. By the time European colonisers arrived in the early
1800s, kākāpō had become confined to the central North Island and forested
parts of the South Island. The fall in kākāpō numbers was accelerated by
European colonisation. A great deal of habitat was lost through forest
clearance, and introduced species such as deer depleted the remaining forests of
food. Other predators such as cats, stoats and two more species of rat were
also introduced. The kākāpō were in serious trouble.
Trước
khi con người đến, kākāpō phổ biến khắp các khu rừng của New Zealand. Tuy
nhiên, tất cả đã thay đổi với sự xuất hiện của những người định cư Polynesia
đầu tiên cách đây khoảng 700 năm. Đối với những người định cư đầu tiên, kākāpō
không biết bay là con mồi dễ dàng. Họ ăn thịt của nó và sử dụng lông của nó để
làm áo choàng mềm. Cùng với họ là chó và chuột Polynesia, chúng cũng săn bắt
kākāpō. Vào thời điểm những người thực dân châu Âu đến vào đầu những năm 1800,
kākāpō đã bị giới hạn ở trung tâm Đảo Bắc và các khu vực rừng của Đảo Nam. Sự
suy giảm số lượng kākāpō đã được đẩy nhanh bởi quá trình thực dân hóa của người
châu Âu. Một lượng lớn môi trường sống đã bị mất do nạn phá rừng và các loài du
nhập như hươu đã làm cạn kiệt nguồn thức ăn còn lại của các khu rừng. Các loài
săn mồi khác như mèo, chồn ecmin và hai loài chuột khác cũng được du nhập.
Kākāpō đã gặp rắc rối nghiêm trọng.
In 1894, the New Zealand
government launched its first attempt to save the kākāpō. Conservationist
Richard Henry led an effort to relocate several hundred of the birds to
predator-free Resolution Island in Fiordland. Unfortunately, the island didn’t
remain predator free – stoats arrived within six years, eventually destroying
the kākāpō population. By the mid-1900s, the kākāpō was practically a lost
species. Only a few clung to life in the most isolated parts of New Zealand.
Năm
1894, chính phủ New Zealand đã khởi động nỗ lực đầu tiên nhằm cứu loài kākāpō.
Nhà bảo tồn Richard Henry đã dẫn đầu nỗ lực di dời hàng trăm con chim đến Đảo
Resolution, nơi không có động vật săn mồi ở Fiordland. Đáng tiếc là hòn đảo này
không còn là nơi trú ẩn an toàn cho động vật săn mồi – chỉ sáu năm sau, chồn
ecmin đã xuất hiện và cuối cùng tiêu diệt quần thể kākāpō. Đến giữa những năm
1900, kākāpō gần như đã tuyệt chủng. Chỉ còn một số ít bám trụ được ở những
vùng hẻo lánh nhất của New Zealand.
From 1949 to 1973, the newly
formed New Zealand Wildlife Service made over 60 expeditions to find kākāpō,
focusing mainly on Fiordland. Six were caught, but there were no females
amongst them and all but one died within a few months of captivity. In 1974, a
new initiative was launched, and by 1977, 18 more kākāpō were found in
Fiordland. However, there were still no females. In 1977, a large population of
males was spotted in Rakiura – a large island free from stoats, ferrets and
weasels. There were about 200 individuals, and in 1980 it was confirmed females
were also present. These birds have been the foundation of all subsequent work
in managing the species.
Từ
năm 1949 đến năm 1973, Cơ quan Động vật Hoang dã New Zealand mới thành lập đã
thực hiện hơn 60 chuyến thám hiểm để tìm kiếm kākāpō, chủ yếu tập trung tại
Fiordland. Sáu con đã bị bắt, nhưng không có con cái nào trong số chúng và tất
cả trừ một con đều chết sau vài tháng nuôi nhốt. Năm 1974, một sáng kiến mới
được phát động, và đến năm 1977, 18 con kākāpō nữa đã được tìm thấy ở
Fiordland. Tuy nhiên, vẫn không có con cái nào. Năm 1977, một quần thể lớn
kākāpō đực đã được phát hiện ở Rakiura – một hòn đảo lớn không có chồn ecmin,
chồn sương và chồn ecmin. Có khoảng 200 cá thể, và vào năm 1980, người ta xác
nhận rằng cũng có con cái ở đó. Những con chim này đã là nền tảng cho tất cả
các công việc sau này trong việc quản lý loài.
Unfortunately, predation by
feral cats on Rakiura Island led to a rapid decline in kākāpō numbers. As a
result, during 1980-97, the surviving population was evacuated to three island
sanctuaries: Codfish Island, Maud Island and Little Barrier Island. However,
breeding success was hard to achieve. Rats were found to be a major predator of
kākāpō chicks and an insufficient number of chicks survived to offset adult
mortality. By 1995, although at least 12 chicks had been produced on the
islands, only three had survived. The kākāpō population had dropped to 51
birds. The critical situation prompted an urgent review of kākāpō management in
New Zealand.
Thật
không may, sự săn mồi của mèo hoang trên đảo Rakiura đã dẫn đến sự suy giảm
nhanh chóng số lượng kākāpō. Kết quả là, trong giai đoạn 1980-1997, quần thể
sống sót đã được di tản đến ba khu bảo tồn trên đảo: Đảo Codfish, Đảo Maud và
Đảo Little Barrier. Tuy nhiên, việc sinh sản thành công rất khó khăn. Chuột
được phát hiện là kẻ săn mồi chính của kākāpō non và số lượng chim non sống sót
không đủ để bù đắp cho tỷ lệ tử vong của chim trưởng thành. Đến năm 1995, mặc
dù có ít nhất 12 chim non được sinh ra trên các đảo, nhưng chỉ có ba con sống
sót. Quần thể kākāpō đã giảm xuống còn 51 con. Tình hình nghiêm trọng đã thúc
đẩy một cuộc đánh giá khẩn cấp về công tác quản lý kākāpō ở New Zealand.
In 1996, a new Recovery Plan
was launched, together with a specialist advisory group called the Kākāpō
Scientific and Technical Advisory Committee and a higher amount of funding.
Renewed steps were taken to control predators on the three islands. Cats were
eradicated from Little Barrier Island in 1980, and possums were eradicated from
Codfish Island by 1986. However, the population did not start to increase until
rats were removed from all three islands, and the birds were more intensively
managed. This involved moving the birds between islands, supplementary feeding
of adults and rescuing and hand-raising any failing chicks.
Năm
1996, một Kế hoạch Phục hồi mới đã được triển khai, cùng với một nhóm cố vấn
chuyên môn mang tên Ủy ban Cố vấn Khoa học và Kỹ thuật Kākāpō và một khoản tài
trợ lớn hơn. Các bước tiếp theo đã được thực hiện để kiểm soát các loài thú săn
mồi trên ba hòn đảo. Mèo đã bị diệt trừ khỏi Đảo Little Barrier vào năm 1980,
và thú có túi possum đã bị diệt trừ khỏi Đảo Codfish vào năm 1986. Tuy nhiên,
quần thể loài này chỉ bắt đầu tăng trở lại cho đến khi chuột bị loại bỏ khỏi cả
ba hòn đảo, và các loài chim được quản lý chặt chẽ hơn. Việc này bao gồm việc
di chuyển chim giữa các đảo, cho chim trưởng thành ăn bổ sung, cứu hộ và nuôi
dưỡng bằng tay bất kỳ con non nào yếu ớt.
After the first five years of
the Recovery Plan, the population was on target. By 2000, five new females had
been produced, and the total population had grown to 62 birds. For the first
time, there was cautious optimism for the future of kākāpō and by June 2020, a
total of 210 birds was recorded.
Sau
năm năm đầu tiên của Kế hoạch Phục hồi, quần thể đã đạt được mục tiêu. Đến năm
2000, năm con cái mới đã được sinh ra, và tổng quần thể đã tăng lên 62 con. Lần
đầu tiên, người ta có cái nhìn lạc quan thận trọng về tương lai của loài vẹt
kākāpō, và đến tháng 6 năm 2020, tổng cộng đã ghi nhận được 210 con.
Today, kākāpō management
continues to be guided by the kākāpō Recovery Plan. Its key goals are: minimise
the loss of genetic diversity in the kākāpō population, restore or maintain
sufficient habitat to accommodate the expected increase in the kākāpō population,
and ensure stakeholders continue to be fully engaged in the preservation of the
species.
Ngày
nay, công tác quản lý kākāpō tiếp tục được định hướng bởi Kế hoạch Phục hồi
kākāpō. Các mục tiêu chính của Kế hoạch là: giảm thiểu sự mất mát đa dạng di
truyền của quần thể kākāpō, khôi phục hoặc duy trì môi trường sống đủ để đáp ứng
nhu cầu gia tăng quần thể kākāpō dự kiến, và đảm bảo các bên liên quan tiếp tục
tham gia đầy đủ vào việc bảo tồn loài.
0 Nhận xét