We
all know how it feels - it’s impossible to keep your mind on anything, time
stretches out, and all the things you could do seem equally unlikely to make
you feel better.
Tất cả chúng
ta đều biết cảm giác buồn chán là như thế nào – chúng ta không thể giữ tâm trí
mình tập trung vào bất cứ thứ gì, thời gian như kéo dài hơn, và tất cả những gì
bạn có thể làm dường như đều không làm bạn cảm thấy đỡ hơn.
We all know
how it feels - it’s impossible to keep your mind on anything, time stretches
out, and all the things you could do seem equally unlikely to make you feel
better.
Tất cả chúng
ta đều biết cảm giác buồn chán là như thế nào – chúng ta không thể giữ tâm
trí mình tập trung vào bất cứ thứ gì, thời gian như kéo dài hơn, và tất cả
những gì bạn có thể làm dường như đều không làm bạn cảm thấy đỡ hơn.
But defining
boredom so that it can be studied in the lab has proved difficult.
Nhưng việc
định nghĩa sự buồn chán để có thể nghiên cứu nó trong phòng thí nghiệm đã được
chứng minh là một điều khó khăn
For a start,
it can include a lot of other mental states, such as frustration, apathy,
depression and indifference.
Ban đầu, tình
trạng ấy có thể bao gồm nhiều tâm trạng về mặt tinh thần khác, như là
sự thất vọng, vô cảm , sự phiền muộn và sự thờ ơ.
There isn’t
even agreement over whether boredom is always a low-energy, flat kind of
emotion or whether feeling agitated and restless counts as
boredom, too.
Thậm chí mọi
người cũng không có sự đồng ý là liệu việc chán nản có phải luôn là một kiểu
cảm xúc tẻ nhạt ít năng lượng hay liệu cảm giác căng thẳng và bồn
chồn cũng được tính là buồn chán luôn.
In his book,
Boredom: A Lively History,Peter Toohey at the University of Calgary, Canada,
compares it to disgust - an emotion that motivates us to stay away
from certain situations.
Trong cuốn
sách của mình, Buồn chán: một lịch sử sống động, Peter Toohey ở trường Đại học
ở Calgary, Canada, đã so sánh nó với sự chán ghét - một loại cảm xúc
mà thúc đẩy chúng ta tránh xa khỏi những tình huống nhất định.
‘If disgust protects
humans from infection, boredom may protect them from “infectious" social
situations,’ he suggests.
Nếu sự
chán ghét bảo vệ loài người khỏi lây nhiễm, buồn chán có lẽ bảo vệ con
người khỏi những tình huống xã hội “lây nhiễm”, ông đề nghị như vậy.
By asking
people about their experiences of boredom, Thomas Goetz and his team at the
University of Konstanz in Germany have recently identified five distinct types:
indifferent, calibrating, searching, reactant and apathetic.
Bằng việc
phỏng vấn mọi người về những trải nghiệm khi buồn chán, Thomas Goetz và nhóm
của ông ở Trường đại học ở Konstanz, Đức mới đây đã nhận ra 5 kiểu riêng biệt
là: chán nản thờ ơ, chán nản định mức, chán nản tìm kiếm, chán nản ứng hóa
học và vô cảm.
These
can be plotted on two axes - one running left to right, which
measures low to high arousal, and the other from top to bottom, which
measures how positive or negative the feeling is.
Chúng có
thể được vẽ trên hai trục - một cái chạy từ trái sang phải, để đo
mức khơi dậy thấp đến cao, và cái kia từ trên xuống dưới, để đo lường
cảm giác tích cực hay tiêu cực.
Intriguingly,
Goetz has found that while people experience all kinds of boredom, they tend
to specialise in one.
Kỳ lạ
thay khi Goetz cho thấy rằng trong khi mọi người trải nghiệm tất cả các
loại chán thì họ có xu hướng chuyên về một loại chán nản nào đó.
Of the five
types, the most damaging is ‘reactant’ boredom with
its explosive combination of high arousal and negative
emotion.
Trong 5 loại,
loại gây tổn hại nhiều nhất là sự ‘chán nản hóa học’ với sự kết hợp bùng
nổ của cảm xúc kích thích và tiêu cực cao.
The most
useful is what Goetz calls ‘indifferent’ boredom: someone isn’t engaged in
anything satisfying but still feels relaxed and calm.
Chán nản hữu
ích nhất mà Goetz gọi là chán nản thờ ơ là khi một người không muốn làm bất cứ
thứ gì để hài lòng nhưng vẫn cảm thấy thư giãn và thanh thản.
However, it
remains to be seen whether there are any character traits that predict the kind
of boredom each of us might be prone to.
Tuy nhiên,
chúng ta vẫn nên nhìn nhận liệu có những nét tính cách nào có thể báo
trước loại chán mà chúng ta có thể dễ mắc phải.
Psychologist
Sandi Mann at the University of Central Lancashire, UK, goes further.
Nhà tâm lí
học Sandi Mann ở trường đại học of Central Lancashire, Anh nghiên cứu sâu hơn.
All emotions
are there for a reason, including boredom,’ she says.
‘tất cả các
cảm xúc tồn tại là có lý do, bao gồm chán nản,’ cô ấy nói.
Mann has
found that being bored makes us more creative.
Mann đã phát
hiện rằng việc chán khiến chúng ta sáng tạo hơn.
We're all
afraid of being bored but in actual fact it can lead to all kinds of amazing
things,’ she says.
Tất cả chúng
ta đều sợ chán nhưng thực ra chán có thể dẫn tới tất cả những thứ tuyệt vời,’
cô ấy nói.
In
experiments published last year, Mann found that people who had been made to
feel bored by copying numbers out of the phone book for 15 minutes came up with
more creative ideas about how to use a polystyrene cup than a control group.
Trong những
thí nghiệm được công bố năm ngoái, Mann đã phát hiện rằng những người bị làm
cho thấy buồn chán bởi việc sao chép số điện thoại ra khỏi danh bạ trong 15
phút sẽ nảy ra những ý tưởng sáng tạo hơn về cách sử dụng một cái cốc nhựa so
với một nhóm chủ động.
Mann
concluded that a passive, boring activity is best for creativity because it
allows the mind to wander.
Mann kết luận
rằng một hoạt động chán, thụ động là tốt nhất cho sự sáng tạo bởi vì nó cho
phép tâm trí nghĩ vơ vẩn.
In fact, she
goes so far as to suggest that we should seek out more boredom in our lives.
Thực ra , cô
ấy nói sâu như vậy để cho thấy chúng ta nên tìm thêm sự nhàm chán trong cuộc
sống.
Psychologist
John Eastwood at York University in Toronto, Canada isn’t convinced.
Nhà tâm lí
học John Eastwood ở trường đại học York ở Toronto, Canada không
thấy thuyết phục.
‘If you are
in a state of mind-wandering you are not bored,’ he says.
’
Nếu tâm trí bạn đang nghĩ vớ vẩn chứng tỏ bạn không chán,’ ông ấy
nói.
‘In my view,
by definition boredom is an undesirable state.
‘ Theo quan
điểm của tôi, bằng định nghĩa nhàm chán là một tâm trạng không mong muốn’.
That doesn't
necessarily mean that it isn’t adaptive, he adds.
Điều đó không
nhất thiết có nghĩa rằng nó không có tính thích nghi, ông ấy nói thêm.
Pain
is adaptive - if we didn’t have physical pain, bad things would
happen to us.
Đau mang
tính thích ứng - nếu chúng ta không có đau đớn về thể chất, những
điều xấu sẽ xảy ra với chúng ta.
Does that
mean that we should actively cause pain? No.
Vậy điều đó
có nghĩa là chúng ta nên chủ động gây ra nỗi đau? Không.
But even if
boredom has evolved to help us survive, it can still be toxic if allowed
to fester’.
Nhưng ngay cả
nếu nỗi buồn đã phát triển để giúp chúng ta tồn tại thì nó vẫn sẽ độc
hại nếu chúng được phép day dưa, không dứt.
“For
Eastwood, the central feature of boredom is a failure to put our ‘attention
system’ into gear.
Đối với
Eastwood, điểm đặc trưng trung tâm của sự nhàm chán là sự thất bại khi đặt‘ hệ
thống chú ý’ của chúng ta vào số.
This causes
an inability to focus on anything, which makes time seem to go
painfully slowly.
Điều này gây
ra sự mất khả năng tập trung vào bất cứ thứ gì, điều mà khiến thời
gian dường như trôi một cách đau khổ chậm chạp.
What's more,
your efforts to improve the situation can end up making you feel worse.
Hơn nữa,
những nỗ lực của bạn để cải thiện tình hình chỉ khiến bạn cảm thấy thấy
tồi tệ hơn mà thôi.
‘People try
to connect with the world and if they are not successful there’s
that frustration and irritability,’ he says.
‘ Mọi người
cố gắng kết nối với thế giới và nếu họ không thành công, sẽ có sự thất
vọng và cáu giận đó,’ Ông ấy nói.
Perhaps
most worryingly, says Eastwood, repeatedly failing to engage attention can
lead to a state where we don’t know what to do any more, and no longer care.
Có lẽ đáng
lo ngại nhất, Eastwood nói, liên tục thất bại khi thu hút sự chú ý có thể
dẫn đến trạng thái nơi mà chúng ta không biết làm gì nữa và không còn quan tâm
mọi thứ xung quanh nữa.
Eastwood’s
team is now trying to explore why the attention system fails.
Nhóm của
Eastwood hiện nay đang cố gắng khám phá tại sao hệ thống chú ý thất bại
It’s early
days but they think that at least some of it comes down to personality.
Đó là những
ngày đầu nhưng họ nghĩ rằng ít nhất một trong số đó là do tính cách.
Boredom proneness has
been linked with a variety of traits.
Dễ mắc chán
nản đã được gắn với tới những tính cách khác nhau.
People who
are motivated by pleasure seem to suffer particularly badly.
Những người
bị thúc đẩy bởi niềm vui dường như đặc biệt dễ mắc một cách tồi tệ.
Other personality traits,
such as curiosity, are associated with a high boredom threshold.
Những đặc
điểm tính cách khác nhau, chẳng hạn như tính hiếu kỳ, thường liên kết
với ngưỡng nhàm chán cao.
More
evidence that boredom has detrimental effects comes from studies of
people who are more or less prone to boredom.
Thêm bằng
chứng rằng sự nhàm chán có ảnh hưởng có hại đến từ những nghiên cứu
về những người mà nhiều hoặc ít mắc chứng nhàm chán hơn..
It seems
those who bore easily face poorer prospects in education, their career and even
life in general.
Có vẻ như
những người mà chán nản dễ dàng đối mặt với những triển vọng kém trong giáo
dục, sự nghiệp của họ và ngay cả cuộc sống nói chung của họ.
But of
course, boredom itself cannot kill -it’s the things we do to deal with it that
may put us in danger.
Nhưng dĩ
nhiên, sự buồn chán không thể mất đi-đó là những điều chúng ta làm để đối phó
với nó điều mà có thể khiến chúng ta gặp nguy hiểm.
What can we
do to alleviate it before it comes to that? Goetz’s group has one suggestion.
Chúng ta có
thể làm gì để giảm sự buồn chán trước khi nó đến ? Nhóm của Goetz có một đề
nghị.
Working with
teenagers, they found that those who ‘approach’ a boring situation - in other
words, see that it’s boring and get stuck in anyway - report less boredom than
those who try to avoid it by using snacks, TV or social media for distraction.
Khi nghiên
cứu những trẻ vị thành niên, họ thấy rằng những người gặp tình huống nhàm chán
– nói cách khác, thấy nhàm chán và bị mắc kẹt ở bất cứ cách nào- kể lại rằng ít
buồn chán hơn những người cố gắng tránh nó bằng việc ăn bimbim, xem TV hoặc
những phương tiện xã hội để phân tâm.
Psychologist
Francoise Wemelsfelder speculates that our over-connected lifestyles might
even be a new source of boredom.
Nhà tâm lý
học Francoise Wemelsfelder đoán rằng lối sống quá kết nối của chúng
ta ngay cả có thể là một nguồn mới của sự buồn chán.
‘In modern
human society there is a lot of overstimulation but still a lot of
problems finding meaning,’ she says.
‘Trong một xã
hội hiện đại của con người có nhiều sự kích thích quá mức nhưng vẫn
có nhiều vấn đề đang cần được tìm ra ý nghĩa,’Cô ấy nói.
So instead
of seeking yet more mental stimulation, perhaps we should leave our phones
alone, and use boredom to motivate us to engage with the world in a more
meaningful way.
Nên do đó
thay vì tìm sự thúc đẩy về mặt tinh thần, có lẽ chúng ta nên bỏ chiếc điện
thoại đi, và lấy sự buồn chán để thúc đẩy chúng ta để hoà mình vào thế giới
theo một cách ý nghĩa hơn.
0 Nhận xét