The thylacine The extinct thylacine, also known as the Tasmanian tiger, was a marsupial* that bore a superficial resemblance to a dog. Its most distinguishing feature was the 13-19 dark brown stripes over its back, beginning at the rear of the body and extending onto the tail. The thylacine’s average nose-to-tail length for adult males was 162.6 cm, compared to 153.7 cm for females.
The thylacine appeared to occupy most types of terrain except dense rainforest, with open eucalyptus forest thought to be its prime habitat. In terms of feeding, it was exclusively carnivorous, and its stomach was muscular with an ability to distend so that it could eat large amounts of food at one time, probably an adaptation to compensate for long periods when hunting was unsuccessful and food scarce.
The thylacine was not a fast runner and probably caught its prey by exhausting it during a long pursuit. During long-distance chases, thylacines were likely to have relied more on scent than any other sense. They emerged to hunt during the evening, night and early morning and tended to retreat to the hills and forest for shelter during the day.
Despite the common name ‘tiger’, the thylacine had a shy, nervous temperament. Although mainly nocturnal, it was sighted moving during the day and some individuals were even recorded basking in the sun.
The thylacine had an extended breeding season from winter to spring, with indications that some breeding took place throughout the year. The thylacine, like all marsupials, was tiny and hairless when born.
Newborns crawled into the pouch on the belly of their mother, and attached themselves to one of the four teats, remaining there for up to three months. When old enough to leave the pouch, the young stayed in a lair such as a deep rocky cave, well-hidden nest or hollow log, whilst the mother hunted.
Approximately 4,000 years ago, the thylacine was widespread throughout New Guinea and most of mainland Australia, as well as the island of Tasmania. The most recent, well-dated occurrence of a thylacine on the mainland is a carbon-dated fossil from Murray Cave in Western Australia, which is around 3,100 years old.
Its extinction coincided closely with the arrival of wild dogs called dingoes in Australia and a similar predator in New Guinea. Dingoes never reached Tasmania, and most scientists see this as the main reason for the thylacine’s survival there.
The dramatic decline of the thylacine in Tasmania, which began in the 1830s and continued for a century, is generally attributed to the relentless efforts of sheep farmers and bounty hunters** with shotguns.
While this determined campaign undoubtedly played a large part, it is likely that various other factors also contributed to the decline and eventual extinction of the species.
These include competition with wild dogs introduced by European settlers, loss of habitat along with the disappearance of prey species, and a distemper-like disease which may also have affected the thylacine.
There was only one successful attempt to breed a thylacine in captivity, at Melbourne Zoo in 1899. This was despite the large numbers that went through some zoos, particularly London Zoo and Tasmania’s Hobart Zoo.
The famous naturalist John Gould foresaw the thylacine’s demise when he published his Mammals of Australia between 1848 and 1863, writing, ‘The numbers of this singular animal will speedily diminish, extermination will have its full sway, and it will then, like the wolf of England and Scotland, be recorded as an animal of the past.’
However, there seems to have been little public pressure to preserve the thylacine, nor was much concern expressed by scientists at the decline of this species in the decades that followed.
A notable exception was T.T. Flynn, Professor of Biology at the University of Tasmania. In 1914, he was sufficiently concerned about the scarcity of the thylacine to suggest that some should be captured and placed on a small island.
But it was not until 1929, with the species on the very edge of extinction, that Tasmania’s Animals and Birds Protection Board passed a motion protecting thylacines only for the month of December, which was thought to be their prime breeding season.
The last known wild thylacine to be killed was shot by a farmer in the north-east of Tasmania in 1930, leaving just captive specimens. Official protection of the species by the Tasmanian government was introduced in July 1936, 59 days before the last known individual died in Hobart Zoo on 7th September, 1936.
There have been numerous expeditions and searches for the thylacine over the years, none of which has produced definitive evidence that thylacines still exist. The species was declared extinct by the Tasmanian government in 1986.
| Thylacine Thylacine đã tuyệt chủng, còn được gọi là hổ Tasmania, là một loài thú có túi* có vẻ ngoài giống chó. Đặc điểm nổi bật nhất của chúng là 13-19 sọc nâu sẫm trên lưng, bắt đầu từ phía sau cơ thể và kéo dài đến đuôi. Chiều dài trung bình từ mũi đến đuôi của thylacine đối với con đực trưởng thành là 162,6 cm, so với 153,7 cm đối với con cái.
Thylacine dường như sinh sống ở hầu hết các loại địa hình ngoại trừ rừng mưa rậm rạp, với rừng bạch đàn mở được cho là môi trường sống chính của chúng. Về mặt thức ăn, chúng chỉ ăn thịt và dạ dày của chúng có cơ bắp với khả năng giãn ra để có thể ăn một lượng lớn thức ăn cùng một lúc, có lẽ là sự thích nghi để bù đắp cho thời gian dài săn mồi không thành công và thức ăn khan hiếm.
Thylacine không phải là loài chạy nhanh và có thể đã bắt được con mồi bằng cách làm chúng kiệt sức trong một cuộc truy đuổi dài. Trong những cuộc truy đuổi đường dài, thylacine có thể dựa nhiều vào mùi hương hơn bất kỳ giác quan nào khác. Chúng xuất hiện để săn mồi vào buổi tối, ban đêm và sáng sớm và có xu hướng rút lui vào các ngọn đồi và khu rừng để trú ẩn vào ban ngày.
Mặc dù có tên gọi chung là 'hổ', nhưng thylacine có tính khí nhút nhát, lo lắng. Mặc dù chủ yếu hoạt động về đêm, nhưng người ta vẫn nhìn thấy chúng di chuyển vào ban ngày và một số cá thể thậm chí còn được ghi nhận đang tắm nắng.
Thylacine có mùa sinh sản kéo dài từ mùa đông đến mùa xuân, với dấu hiệu cho thấy một số lần sinh sản diễn ra trong suốt cả năm. Thylacine, giống như tất cả các loài thú có túi, rất nhỏ và không có lông khi mới sinh.
Những con non bò vào túi trên bụng mẹ và bám vào một trong bốn núm vú, ở đó tới ba tháng. Khi đủ lớn để rời khỏi túi, những con non ở trong hang ổ như hang đá sâu, tổ ẩn náu kỹ hoặc khúc gỗ rỗng, trong khi mẹ đi săn.
Khoảng 4.000 năm trước, thylacine đã phân bố rộng rãi khắp New Guinea và hầu hết lục địa Úc, cũng như đảo Tasmania. Sự xuất hiện gần đây nhất, có niên đại rõ ràng của một con thylacine trên đất liền là một hóa thạch có niên đại bằng cacbon từ Hang Murray ở Tây Úc, có niên đại khoảng 3.100 năm.
Sự tuyệt chủng của nó trùng hợp chặt chẽ với sự xuất hiện của những con chó hoang được gọi là chó sói dingo ở Úc và một loài săn mồi tương tự ở New Guinea. Chó sói dingo chưa bao giờ đến Tasmania và hầu hết các nhà khoa học coi đây là lý do chính khiến thylacine tồn tại ở đó.
Sự suy giảm mạnh mẽ của thylacine ở Tasmania, bắt đầu vào những năm 1830 và kéo dài trong một thế kỷ, thường được cho là do những nỗ lực không ngừng nghỉ của những người chăn cừu và thợ săn tiền thưởng** bằng súng ngắn. Mặc dù chiến dịch quyết tâm này chắc chắn đóng một vai trò lớn, nhưng có khả năng nhiều yếu tố khác cũng góp phần vào sự suy giảm và cuối cùng là sự tuyệt chủng của loài này.
Những yếu tố này bao gồm sự cạnh tranh với những con chó hoang do những người định cư châu Âu mang đến, mất môi trường sống cùng với sự biến mất của các loài con mồi và một căn bệnh giống như bệnh care cũng có thể đã ảnh hưởng đến thylacine.
Chỉ có một nỗ lực thành công trong việc nhân giống chó sói túi trong điều kiện nuôi nhốt, tại Vườn thú Melbourne vào năm 1899. Điều này bất chấp số lượng lớn đã đi qua một số vườn thú, đặc biệt là Vườn thú London và Vườn thú Hobart của Tasmania.
Nhà tự nhiên học nổi tiếng John Gould đã thấy trước sự diệt vong của chó sói túi khi ông xuất bản cuốn Mammals of Australia trong khoảng thời gian từ năm 1848 đến năm 1863, ông viết rằng, 'Số lượng loài động vật đặc biệt này sẽ nhanh chóng giảm đi, sự diệt chủng sẽ diễn ra hoàn toàn, và sau đó, giống như loài sói ở Anh và Scotland, chúng sẽ được ghi nhận là loài động vật của quá khứ.'
Tuy nhiên, có vẻ như công chúng không gây nhiều áp lực để bảo tồn chó sói túi, cũng như các nhà khoa học không bày tỏ nhiều lo ngại về sự suy giảm của loài này trong những thập kỷ sau đó.
Một ngoại lệ đáng chú ý là T.T. Flynn, Giáo sư Sinh học tại Đại học Tasmania. Năm 1914, ông đã đủ lo ngại về sự khan hiếm của chó sói túi đến mức đề xuất rằng nên bắt một số con và đưa chúng đến một hòn đảo nhỏ.
Nhưng mãi đến năm 1929, khi loài này đang trên bờ vực tuyệt chủng, Hội đồng Bảo vệ Động vật và Chim Tasmania mới thông qua một động thái bảo vệ loài thylacine chỉ trong tháng 12, được cho là mùa sinh sản chính của chúng.
Con thylacine hoang dã cuối cùng được biết đến bị giết đã bị một người nông dân ở phía đông bắc Tasmania bắn chết vào năm 1930, chỉ còn lại những mẫu vật nuôi nhốt. Chính quyền Tasmania đã chính thức bảo vệ loài này vào tháng 7 năm 1936, 59 ngày trước khi cá thể cuối cùng được biết đến chết tại Vườn thú Hobart vào ngày 7 tháng 9 năm 1936.
Đã có rất nhiều cuộc thám hiểm và tìm kiếm thylacine trong nhiều năm, nhưng không có cuộc nào đưa ra bằng chứng xác đáng rằng thylacine vẫn còn tồn tại. Loài này đã được chính quyền Tasmania tuyên bố tuyệt chủng vào năm 1986. |
0 Nhận xét