Nowadays, we use different products
for personal cleanliness, laundry, dishwashing and household cleaning, but
this is very much a 20th-century development. The origins of cleanliness
date back to prehistoric times. Since water is essential for life, the
earliest people lived near water and knew something about its cleansing
properties – at least that it rinsed mud off (Q31) their
hands. During the excavation of
ancient Babylon, evidence was found that soapmaking was known as early as
2800 BC. Archaeologists discovered cylinders made of clay (Q32),
with inscriptions on them saying that fats were boiled with askes. This is a
method of making soap, though there’s no reference to the purpose of this
material. The early Greeks bathed for
aesthetic reasons and apparently didn’t use soap. Instead, they cleaned their
bodies with blocks of sand, pumice and ashes, then anointed themselves with
oil, and scraped off the oil and dirt with a metal instrument
known as a strigil (Q33). They also used oil mixed with ashes.
Clothes were washed without soap in streams. The ancient Germans and Gauls
are also credited with discovering how to make a substance called ‘soap’,
made of melted animal fat and ashes. They used this mixture to
tint their hair red (Q34). Soap got its name, according
to an ancient Roman legend, from Mount Sapo, where animals were sacrificed,
leaving deposits of animal fat. Rain washed these deposits, along with wood
ashes, down into the clay soil along the River Tiber. Women found that this
mixture greatly reduced the effort required to wash their clothes. As Roman civilisation
advance, so did bathing. The first of the famous Roman baths,
supplied with water from their aqueducts (Q35), was built around
312 BC. The baths were luxurious, and bathing became very popular. And by the
second century AD, the Greek physician Galen recommended soap for both
medicinal and cleaning purposes. ————————– After the fall of Rome in 467
AD and the resulting decline in bathing habits, much of Europe felt the
impact of filth on public health. This lack of personal
cleanliness and related unsanitary living conditions were major factors in
the outbreaks of disease (Q36) in the Middle Ages, and
especially the Black Death of the 14th century. Nevertheless, soapmaking
became an established craft in Europe, and associations of soapmakers guarded
their trade secrets closely. Vegetable and animal oils were used with ashes
of plants, along with perfume, apparently for the first time (Q37).
Gradually more varieties of soap became available for shaving and shampooing,
as well as bathing and laundering. A major step toward
large-scale commercial soapmaking occurred in 1791, when a French chemist,
Nicholas Leblanc, patented a process for turning salt into soda
ash (Q38), or sodium carbonate. Soda ash is the alkali obtained
from ashes that combines with fat to form soap. The Leblanc process yielded
quantities of good-quality, inexpensive soda ash. Modern soapmaking was born
some 20 years later, in the early 19th century, with the discovery by Michel
Eugène Chevreul, another French chemist, of the chemical nature and
relationship of fats, glycerine and fatty acids. His studies established
the basis for both fat and soap chemistry, and soapmaking became a science (Q39).
Further developments during the 19th century made it easier and cheaper to
manufacture soap. Until the 19th century, soap
was regarded as a luxury item, and was heavily taxed in several countries. As
it became more readily available, it became an everyday necessity, a
development that was reinforced when the high tax was removed (Q40).
Soap was then something ordinary people could afford, and cleanliness
standards improved. With this widespread use came
the development of milder soaps for bathing and soaps for use in the washing
machines that were available to consumers by the turn of the 20th century. |
Ngày nay, chúng ta sử dụng nhiều sản phẩm
khác nhau để vệ sinh cá nhân, giặt giũ, rửa bát và lau nhà, nhưng đây thực sự
là một sự phát triển của thế kỷ 20. Nguồn gốc của sự sạch sẽ có từ thời tiền
sử. Vì nước rất cần thiết cho sự sống nên những người đầu tiên sống gần nước
và biết đôi điều về đặc tính làm sạch của nó - ít nhất là nước rửa sạch bùn
(Q31) trên tay họ. Trong quá trình khai quật Babylon cổ đại,
người ta đã tìm thấy bằng chứng cho thấy nghề làm xà phòng đã được biết đến từ
năm 2800 trước Công nguyên. Các nhà khảo cổ đã phát hiện ra những ống trụ làm
bằng đất sét (Q32), trên đó có dòng chữ nói rằng chất béo được đun sôi bằng
que hỏi. Đây là một phương pháp làm xà phòng, mặc dù không có đề cập đến mục
đích của vật liệu này. Người Hy Lạp cổ tắm vì lý do thẩm mỹ và
dường như không sử dụng xà phòng. Thay vào đó, họ làm sạch cơ thể bằng các khối
cát, đá bọt và tro, sau đó xức dầu và cạo sạch dầu và bụi bẩn bằng một dụng cụ
kim loại được gọi là strigil (Q33). Họ cũng sử dụng dầu trộn với tro. Quần áo
được giặt mà không có xà phòng trong suối. Người Đức và người Gaul cổ đại cũng được
ghi nhận là người đã khám phá ra cách tạo ra một chất gọi là 'xà phòng', được
làm từ mỡ và tro động vật tan chảy. Họ dùng hỗn hợp này để nhuộm tóc màu đỏ
(Q34). Xà phòng có tên như vậy, theo một truyền
thuyết La Mã cổ đại, từ Núi Sapo, nơi động vật bị hiến tế, để lại mỡ động vật.
Mưa cuốn trôi những cặn lắng này cùng với tro gỗ xuống lớp đất sét dọc theo
Sông Tiber. Phụ nữ nhận thấy rằng hỗn hợp này giúp họ giảm đáng kể công sức
giặt quần áo. Khi nền văn minh La Mã tiến bộ, việc tắm
rửa cũng vậy. Nhà tắm La Mã nổi tiếng đầu tiên được cung cấp nước từ cống dẫn
nước (Q35), được xây dựng vào khoảng năm 312 trước Công nguyên. Phòng tắm rất
sang trọng và việc tắm rửa trở nên rất phổ biến. Và đến thế kỷ thứ hai sau
Công nguyên, bác sĩ người Hy Lạp Galen đã khuyên dùng xà phòng cho cả mục
đích chữa bệnh và làm sạch. ————————— Sau sự sụp đổ của Rome vào năm 467 sau
Công Nguyên và hậu quả là thói quen tắm rửa suy giảm, phần lớn châu Âu đã cảm
nhận được tác động của rác rưởi đối với sức khỏe cộng đồng. Việc thiếu vệ
sinh cá nhân và điều kiện sống mất vệ sinh liên quan là nguyên nhân chính dẫn
đến sự bùng phát dịch bệnh (Q36) vào thời Trung Cổ, và đặc biệt là Cái chết
đen vào thế kỷ 14. Tuy nhiên, sản xuất xà phòng đã trở
thành một nghề thủ công lâu đời ở châu Âu và các hiệp hội sản xuất xà phòng bảo
vệ bí mật thương mại của họ một cách chặt chẽ. Dường như đây là lần đầu tiên
dầu thực vật và động vật được sử dụng cùng với tro thực vật cùng với nước hoa
(Q37). Dần dần, ngày càng có nhiều loại xà phòng dùng để cạo râu và gội đầu,
cũng như để tắm và giặt. Một bước quan trọng hướng tới sản xuất
xà phòng thương mại quy mô lớn xảy ra vào năm 1791, khi nhà hóa học người
Pháp, Nicholas Leblanc, được cấp bằng sáng chế cho quy trình biến muối thành
tro soda (Q38), hay natri cacbonat. Tro soda là chất kiềm thu được từ tro kết
hợp với chất béo để tạo thành xà phòng. Quy trình Leblanc tạo ra lượng tro
soda rẻ tiền, chất lượng tốt. Nghề làm xà phòng hiện đại ra đời khoảng
20 năm sau, vào đầu thế kỷ 19, với sự phát hiện của Michel Eugène Chevreul, một
nhà hóa học người Pháp khác, về bản chất hóa học và mối quan hệ giữa chất
béo, glycerine và axit béo. Các nghiên cứu của ông đã thiết lập nền tảng cho
cả hóa học chất béo và xà phòng, và việc chế tạo xà phòng đã trở thành một
khoa học (Q39). Những phát triển tiếp theo trong thế kỷ 19 đã khiến việc sản
xuất xà phòng trở nên dễ dàng và rẻ hơn. Cho đến thế kỷ 19, xà phòng được coi là
một mặt hàng xa xỉ và bị đánh thuế nặng nề ở một số quốc gia. Khi nó trở nên
sẵn có hơn, nó trở thành nhu cầu thiết yếu hàng ngày, một sự phát triển được
củng cố khi mức thuế cao được bãi bỏ (Q40). Xà phòng khi đó là thứ mà người
bình thường có thể mua được và tiêu chuẩn về độ sạch sẽ được cải thiện. Với việc sử dụng rộng rãi này đã dẫn đến
sự phát triển các loại xà phòng nhẹ hơn để tắm và xà phòng dùng trong máy giặt
được cung cấp cho người tiêu dùng vào đầu thế kỷ 20. |
0 Nhận xét