PART 3. CUỐN 10 TEST 1

05:50 |

 

Tại sao có quá ít công ty thật sự sáng tạo?

A

Sáng tạo luôn là chìa khoá sống còn trong kinh doanh và các công ty lúc nào cũng đầu tư một nguồn tài nguyên đáng kể để truyền cảm hứng cho nhân viên mình sáng tạo.
Innovation is key to business survival, and companies put substantial resources into inspiring employees to develop new ideas.

Tuy nhiên có 1 số người làm việc trong những trung tâm sang trọng và hiện đại, được thiết kế để kích thích sự sáng tạo nhưng họ thấy môi trường đó không làm cho họ cảm giác sáng tạo chút nào.
There are, nevertheless, people working in luxurious, state-of-the-art centres designed to stimulate innovation who find that their environment doesn’t make them feel at all creative.

Và có những người không có tiền hay không gian nhưng họ sáng tạo rất tốt.
And there are those who don’t have a budget, or much space, but who innovate successfully.

B

Một trong những lý do mà các công ty không thành công trong việc sáng tạo bắt nguuồn từ việc tuyển dụng.
One reason that companies don’t succeed as often as they should is that innovation starts with recruitment.

Các cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng việc phù hợp giữa giá trị nhân viên và giá trị công ty sẽ tạo ra sự khác biệt với những gì mà nhân viên đóng góp và liệu sao hai năm làm việc, họ có tiếp tục cống hiến cho công ty hay không? Research shows that the fit between an employee’s values and a company’s values makes a difference to what contribution they make and whether, two years after they join, they’re still at the company.
Studies show that, although some individuals may be more creative than others, almost every individual can be creative in the right circumstances.

C

Các cuộc nghiên cứu cũng chỉ ra rằng mặc dù có vài người có khả năng sáng tạo hơn người khác nhưng đa phần trong những hoàn cảnh cụ thể nào đó đều có thể sáng tạo.
One of the most famous photographs in the story of rock’n’roll emphasises Ciaidini’s views.

Để làm rõ quan điểm trên, tác giả đã đưa ra một ví dụ về tấm hình nổi tiếng của ban nhạc Million Dollar Quartet (tạm dịch là Bộ Tứ Triệu Đô) chụp vào năm 1956 gồm các ca sĩ Elvis Presley, Carl Perkins, Johnny Cash và Jerry Lee Lewis đang tụ tập bên một cây đàn dương cầm ở phòng thu Sun đã thể hiện một câu chuyện ẩn chứa bên trong.
The 1956 picture of singers Elvis Presley, Carl Perkins, Johnny Cash and Jerry Lee Lewis jamming at a piano in Sun Studios in Memphis tells a hidden story.

Ban nhạc tứ ca này có thể gồm năm người! Người thiếu trong bức hình là Roy Orbison là ca sĩ có tài năng bẩm sinh được ví giỏi hơn cả Lewis, Perkins hay Cash.
Sun’s ‘million-dollar quartet’ could have been a quintet.

Ông chủ phòng thu Sun là Sam Phillips muốn làm một cuộc cách mạng về nhạc phổ thông với các bài hát thuộc thể loại fused black, white music, country và blues.
Missing from the picture is Roy Orbison’ a greater natural singer than Lewis, Perkins or Cash.

Presley, Cash, Perkins và Lewis không mấy khó khăn để hiểu tham vọng của Philip và tin là nó sẽ thành công còn Orbison thì không tin tưởng mấy vào mục tiêu này và chỉ thu thành công duy nhất một bài với phòng thu Sun mà thôi.
Sam Phillips, who owned Sun, wanted to revolutionise popular music with songs that fused black and white music, and country and blues.

Tác giả cho rằng giá trị sẽ phù hợp theo hoàn cảnh vì sáng tạo là 1 phần của quá trình thay đổi và khi chịu áp lực thì chúng ta sẽ cư sử và hành động khác đi.
Presley, Cash, Perkins and Lewis instinctively understood Phillips’s ambition and believed in it.

Do đó các trưởng phòng ban nên có 1 cách nào đó khác thường như giải thích cho nhân viên rằng chúng ta sẽ mất gì nếu công ty không nắm bắt được cơ hội.
Orbison wasn’t inspired by the goal, and only ever achieved one hit with the Sun label.

D

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng chúng ta luôn mạo hiểm hơn khi sợ bị mất gì đó hơn là khi được khen thưởng.
The value fit matters because innovation is, in part, a process of change, and under that pressure we, as a species, behave differently.

Quản lý sự sáng tạo là một nghệ thuật tinh vi.
Managers should therefore adopt an approach that appears counter-intuitive -they should explain what stands to be lost if the company fails to seize a particular opportunity.

Trong một công ty nếu mỗi phòng ban khác nhau như tiếp thị, sản xuất, tài chính … đưa ra nhận xét về một nhóm khác thì dễ xảy ra mâu thuẫn.
Studies show that we invariably take more gambles when threatened with a loss than when offered a reward.

E

Và nếu không có 1 hệ thống quản lý việc trao đổi, hợp tác nội bộ trong công ty thì cũng rất dễ làm cho những nhóm sáng tạo nhỏ biến mất.
Managing innovation is a delicate art.

Sáng tạo là một môn thể thao giao tiếp.
It’s easy for a company to be pulled in conflicting directions as the marketing, product development, and finance departments each get different feedback from different sets of people.

Bạn không thể chỉ một ai đó mà nói ”Chúng ta sẽ đi theo hướng này và tôm sẽ dẫn anh đi”.
And without a system which ensures collaborative exchanges within the company, it’s also easy for small ‘pockets of innovation‟ to disappear.

Tác giả cũng tin rằng hội chứng ”nghe theo lãnh đạo" rất nguy hiểm vì nó khuyến khích các ông chủ quyết định cái gì đó một mình mà không cần hỏi nhân viên của mình.
Innovation is a contact sport.

Theo khoa học chứng mình thì ba người giải quyết 1 vấn đề sẽ tốt hơn là 1 người thậm chí khi người đó là giỏi nhất trong lĩnh vực đó.
You can‟t brief people just by saying, ‘We’re going in this direction and I’m going to take you with me".

F

Để chứng minh cho quan điểm của mình, tác giả đã trích dẫn 1 cuộc phỏng vấn với nhà sinh học phân tử James Watson.
Cialdini believes that this ‘follow-the-leader syndrome, is dangerous, not least because it encourages bosses to go it alone.

Ông Watson cùng với Francis Crick dã khám phá ra cấu trúc ADN, một vật truyền dẫn thông tin di truyền của tất cả sinh vật sống.
‘It’s been scientifically proven that three people will be better than one at solving problems, even if that one person is the smartest person in the field.

Khi được hỏi làm thế nào mà họ có thể giải mã được trước hàng loạt các nhà nghiên cứu tài ba khác thì ông Watson đã nói một câu mà làm tôi choáng váng.
’ To prove his point, Cialdini cites an interview with molecular biologist James Watson.

Ông nói: Tôi và Crick đã thành công vì chúng tôi biết rằng chúng tôi không phải là nhà khoa học thông minh nhất theo đuổi câu trả lời.
Watson, together with Francis Crick, discovered the structure of DNA, the genetic information carrier of all living organisms.

Nhà khoa học thông minh nhất được gọi là Rosalind Franklin mà theo Watson là người quá thông minh ít khi tìm kiếm lời khuyên của người khác.
‘When asked how they had cracked the code ahead of an array of highly accomplished rival investigators, he said something that stunned me.

Rosalind Franklin là một nhà lý sinh học và tinh thể học tia X có những đóng góp quan trọng cho sự hiểu biết về cấu trúc phân tử của ADN, ARN, virus, than đá, và than chì.
He said he and Crick had succeeded because they were aware that they weren’t the most intelligent of the scientists pursuing the answer.

Nghiên cứu về DNA của bà đã đạt được những thành tựu to lớn vì ADN đóng vai trò quan trọng trong chu trình chuyển hóa của tế bào và trong di truyền học, việc khám phá ra cấu trúc của nó đã giúp bà và đồng nghiệp hiểu rõ được cách thông tin di truyền được truyền lại từ cha mẹ cho con cái.
The smartest scientist was called Rosalind Franklin who, Watson said, “was so intelligent she rarely sought advice”.

G

Franklin được biết đến nhiều nhất qua công trình Photo 51 dẫn đến sự khám phá ra cấu trúc ADN.
Teamwork taps into one of the basic drivers of human behaviour.

Nhóm nghiên cứu đã đề cập đến 1 trong những động cơ cơ bản của hành vi con người.
‘The principle of social proof is so pervasive that we don’t even recognise it,’ says Cialdini.

Về mặt xã hội thì nguyên lý này quá hiển nhiên đến nỗi thậm chí chúng ta không nhận ra.
‘If your project is being resisted, for example, by a group of veteran employees, ask another old-timer to speak up for it.

Ví dụ nếu dự án của bạn bị công kích bởi 1 nhóm nhân viên kỳ cựu thì hãy yêu cầu 1 người kỳ cựu khác nói dùm bạn.
’ Cialdini is not alone in advocating this strategy.

Nghiên cứu cũng chỉ rằng sức mạnh về sự ngang hàng (theo hàng ngang) thì mạnh hơn nhiều so với bất kỳ lời nói của một vị giám đốc nào.
Research shows that peer power, used horizontally not vertically, is much more powerful than any boss’s speech.

H

Viết, mô hình hoá và làm các mẫu thí nghiệm có thể kích thích các luồng ý tưởng mới .
Writing, visualising and prototyping can stimulate the flow of new ideas.

Tác giả đã trích dẫn các số liệu trong các bài nghiên cứu và các sự kiện lịch sư để chứng minh rằng thậm chí những thứ đơn giản như viết có thể tăng tính cam kết của mỗi thành viên trong dự án.
Cialdini cites scores of research papers and historical events that prove that even something as simple as writing deepens every individual’s engagement in the project.

Đó là nguyên nhân vì sao tất cả cuộc thi về ăn ngủ cốc buổi sáng khuyến khích chúng ta viết không quá 10 chữ, ví dụ: “tôi thích bánh Com Flakes của Kellogg vì …”.
It is, he says, the reason why all those competitions on breakfast cereal packets encouraged us to write in saying, in no more than 10 words: ‘I like Kellogg’s Com Flakes because… .

Hành động này giúp chúng ta tin vào chính những gì chúng ta viết.
’ The very act of writing makes us more likely to believe it.

I

Quyền lực không phải lúc nào cũng ngăn cản sự sáng tạo nhưng đôi khi là có.
Authority doesn’t have to inhibit innovation but it often does.

Một loại hình lãnh đạo sai lầm dẫn đến vấn đề mà tác giả gọi là ”captainitis”, là 1 khuynh hướng đáng tiếc của các thành viên trong việc quyết định trách nhiệm nào là của mình.
The wrong kind of leadership will lead to what Cialdini calls ”captainitis, the regrettable tendency of team members to opt out of team responsibilities that are properly their’.

Tác giả gọi nó là ”captainitis” vì các thành viên trong 1 đội bay thỉnh thoảng có những sự thụ động chết người khi cơ trưởng có 1 quyết định ương ngạnh rõ ràng.
He calls it captainitis because, he says, ”crew members of multipilot aircraft exhibit a sometimes deadly passivity when the flight captain makes a clearly wrong-headed decision”.

Hành vi này không phải chỉ có trong ngành hàng không mà có thể xảy ra ở bất kỳ nơi làm việc nào có ông sếp độc đoán.
This behaviour is not unique to air travel, but can happen in any workplace where the leader is overbearing.

J

Vào thập niên 1980, một nhóm thiết kế gồm những nhà thiết kế trẻ của Memphis là những người đề ra quy luật ”không có quy luật nào cả".
At the other end of the scale is the 1980s Memphis design collective, a group of young designers for whom ”the only rule was that there were no rule”.

Môi trường độc đáo này khuyến khích mọi người trao đổi nội bộ thoải mái các ý tưởng từ đó có thể sáng tạo tốt hơn trong các thiết kế về màu sắc, vật liệu … Điều này dã làm một cuộc cách mạng trong thái độ của mọi người về ngành thiết kế nội thất.
This environment encouraged a free interchange of ideas, which led to more creativity with form, function, colour and materials that revolutionised attitudes to furniture design.

K

Nhiều nhà lý luận tin rằng một ông chủ lý tưởng nên lãnh đạo từ phía sau nghĩa là để ý đến việc thu thập những việc đã được hoàn thành và cho ý kiến khi công việc đó đến hạn.
Many theorists believe the ideal boss should lead from behind, taking pride in collective accomplishment and giving credit where it is due.

Lãnh đạo nên khuyến khích mọi người đóng góp và đồng thời bảo đảm rằng tất cả mọi lời đề nghị đều quan trọng để ra 1 quyết định chính xác và các lời đề nghị này sẽ được chú ý và quan tâm một cách trọn vẹn.
Leaders should encourage everyone to contribute and simultaneously assure all concerned that every recommendation is important to making the right decision and will be given full attention.

Điều thất vọng về sáng tạo là có quá nhiều phương án tiếp cận nhưng không có công thức tối ưu nào.
The frustrating thing about innovation is that there are many approaches, but no magic formula.

Tuy nhiên một người lãnh đạo muốn tạo ra một văn hoá sáng tạo thực sự thì việc họ có thể làm là nhận ra các thực trạng về tâm lý này.
However, a manager who wants to create a truly innovative culture can make their job a lot easier by recognising these psychological realities.

Xem thêm…

PART 2. CUỐN 15 TEST 3

19:50 |

 

The Desolenator: producing clean water

A

Travelling around Thailand in the 1990s, William Janssen was impressed with the basic rooftop solar heating systems that were on many homes, where energy from the sun was absorbed by a plate and then used to heat water for domestic use. Two decades later Janssen developed that basic idea he saw in Southeast Asia into a portable device that uses the power from the sun to purify water.

B

The Desolenator operates as a mobile desalination unit that can take water from different places, such as the sea, rivers, boreholes and rain, and purify it for human consumption. It is particularly valuable in regions where natural groundwater reserves have been polluted, or where seawater is the only water source available.

Janssen saw that there was a need for a sustainable way to clean water is both the developing and the developed countries when he moved to the United Arab Emirates and saw large-scale water processing. ‘I was confronted with the enormous carbon footprint that the Gulf nations have because of all of the desalination that they do,’ he says.

C

The Desolenator can produce 15 litres of drinking water per day, enough to sustain a family for cooking and drinking. Its main selling point is that unlike standard desalination techniques, it doesn’t require a generated power supply: just sunlight. It measures 120 cm by 90 cm, and it easy to transport, thanks to its two wheels. Water enters through a pipe, and flows as a thin film between a sheet of double glazing and the surface of a solar panel, where it is heated by the sun. the warm water flows into a small boiler (heated by a solar-powered battery) where it is converted to steam. When the steam cools, it becomes distilled water. The device has a very simple filter to trap particles, and this can easily be shaken to remove them. There are two tubes for liquid coming out: one for the waste – salt from seawater, fluoride, etc. – and another for the distilled water. The performance of the unit is shown on an LCD screen and transmitted to the company which provides servicing when necessary.

D

A recent analysis found that at least two-thirds of the world’s population lives with severe water scarcity for at least a month every year. Janssen says that be 2030 half of the world’s population will be living with water stress – where the demand exceeds the supply over a certain period of time. ‘It is really important that a sustainable solution is brought to the market that is able to help these people,’ he says. Many countries ‘don’t have the money for desalination plants, which are very expensive to build. They don’t have the money to operate them, they are very maintenance intensive, and they don’t have the money to buy the diesel to run the desalination plants, so it is a really bad situation.’

E

The device is aimed at a wide variety of users – from homeowners in the developing world who do not have a constant supply of water to people living off the grid in rural parts of the US. The first commercial versions of the Desolenator are expected to be in operation in India early next year, after field tests are carried out. The market for the self-sufficient devices in developing countries is twofold – those who cannot afford the money for the device outright and pay through microfinance, and middle-income homes that can lease their own equipment. ‘People in India don’t pay for a fridge outright; they pay for it over six months. They would put the Desolenator on their roof and hook it up to their municipal supply and they would get very reliable drinking water on a daily basis,’ Janssen says. In the developed world, it is aimed at niche markets where tap water is unavailable – for camping, on boats, or for the military, for instance.

F

Prices will vary according to where it is bought. In the developing world, the price will depend on what deal aid organisations can negotiate. In developed countries, it is likely to come in at $1,000 (£685) a unit, said Janssen. ‘We are a venture with a social mission. We are aware that the product we have envisioned is mainly finding application in the developing world and humanitarian sector and that this is the way we will proceed. We do realise, though, that to be a viable company there is a bottom line to keep in mind,’ he says.

G

The company itself is based at Imperial College London, although Janssen, its chief executive, still lives in the UAE. It has raised £340,000 in funding so far. Within two years, he says, the company aims to be selling 1,000 units a month, mainly in the humanitarian field. They are expected to be sold in areas such as Australia, northern Chile, Peru, Texas and California.

 

Desolenator: sản xuất nước sạch

A

Khi đi du lịch khắp Thái Lan vào những năm 1990, William Janssen đã rất ấn tượng với hệ thống sưởi ấm bằng năng lượng mặt trời trên mái nhà cơ bản có ở nhiều ngôi nhà, nơi năng lượng từ mặt trời được hấp thụ bởi một tấm pin và sau đó được sử dụng để đun nước nóng phục vụ nhu cầu sinh hoạt. Hai thập kỷ sau, Janssen đã phát triển ý tưởng cơ bản mà ông nhìn thấy ở Đông Nam Á thành một thiết bị di động sử dụng năng lượng từ mặt trời để làm sạch nước.

B

Desolenator hoạt động như một đơn vị khử muối di động có thể lấy nước từ nhiều nơi khác nhau, chẳng hạn như biển, sông, giếng khoan và nước mưa, và làm sạch nước để con người sử dụng. Thiết bị này đặc biệt có giá trị ở những khu vực mà trữ lượng nước ngầm tự nhiên đã bị ô nhiễm hoặc nơi nước biển là nguồn nước duy nhất có sẵn.

Janssen nhận thấy rằng cần có một cách bền vững để làm sạch nước ở cả các nước đang phát triển và các nước phát triển khi ông chuyển đến Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất và chứng kiến ​​quá trình xử lý nước quy mô lớn. Ông cho biết: 'Tôi đã phải đối mặt với lượng khí thải carbon khổng lồ mà các quốc gia vùng Vịnh phải chịu do tất cả các hoạt động khử muối mà họ thực hiện'.

 

C

Desolenator có thể sản xuất 15 lít nước uống mỗi ngày, đủ để một gia đình dùng để nấu ăn và uống. Điểm bán hàng chính của nó là không giống như các kỹ thuật khử muối thông thường, nó không yêu cầu nguồn điện được tạo ra: chỉ cần ánh sáng mặt trời. Nó có kích thước 120 cm x 90 cm và dễ vận chuyển, nhờ có hai bánh xe. Nước đi vào qua một đường ống và chảy như một lớp màng mỏng giữa một tấm kính hai lớp và bề mặt của tấm pin mặt trời, nơi nó được mặt trời làm nóng. Nước ấm chảy vào một nồi hơi nhỏ (được làm nóng bằng pin năng lượng mặt trời) nơi nó được chuyển thành hơi nước. Khi hơi nước nguội đi, nó trở thành nước cất. Thiết bị có một bộ lọc rất đơn giản để giữ lại các hạt và có thể dễ dàng lắc để loại bỏ chúng. Có hai ống dẫn chất lỏng chảy ra: một ống dẫn chất thải - muối từ nước biển, florua, v.v. - và một ống dẫn nước cất. Hiệu suất của thiết bị được hiển thị trên màn hình LCD và được truyền đến công ty cung cấp dịch vụ khi cần thiết.

D

Một phân tích gần đây cho thấy ít nhất hai phần ba dân số thế giới sống trong tình trạng thiếu nước nghiêm trọng ít nhất một tháng mỗi năm. Janssen cho biết đến năm 2030, một nửa dân số thế giới sẽ sống trong tình trạng thiếu nước - khi nhu cầu vượt quá nguồn cung trong một khoảng thời gian nhất định. Ông cho biết 'Điều thực sự quan trọng là phải đưa ra thị trường một giải pháp bền vững có thể giúp đỡ những người này'. Nhiều quốc gia 'không có tiền để xây dựng các nhà máy khử muối, vốn rất tốn kém. Họ không có tiền để vận hành chúng, chúng đòi hỏi rất nhiều công sức bảo trì và họ không có tiền để mua dầu diesel để vận hành các nhà máy khử muối, vì vậy đây thực sự là một tình huống tồi tệ'.

E

Thiết bị này hướng đến nhiều đối tượng người dùng khác nhau - từ những chủ nhà ở các nước đang phát triển không có nguồn cung cấp nước liên tục cho đến những người sống ngoài lưới điện ở các vùng nông thôn của Hoa Kỳ. Phiên bản thương mại đầu tiên của Desolenator dự kiến ​​sẽ được đưa vào hoạt động tại Ấn Độ vào đầu năm tới, sau khi tiến hành các cuộc thử nghiệm thực địa. Thị trường thiết bị tự cung tự cấp ở các nước đang phát triển có hai mặt - những người không đủ khả năng chi trả tiền mua thiết bị ngay lập tức và trả thông qua tài chính vi mô, và những hộ gia đình có thu nhập trung bình có thể thuê thiết bị của riêng họ. Janssen cho biết: 'Người dân ở Ấn Độ không trả tiền mua tủ lạnh ngay lập tức; họ trả tiền trong sáu tháng. Họ sẽ đặt Desolenator trên mái nhà và kết nối với nguồn cung cấp của thành phố và họ sẽ có nước uống rất đáng tin cậy hàng ngày'. Ở các nước phát triển, sản phẩm này nhắm đến các thị trường ngách nơi không có nước máy - ví dụ như để cắm trại, trên thuyền hoặc cho quân đội.

F

Giá sẽ thay đổi tùy theo nơi mua. Ở các nước đang phát triển, giá sẽ phụ thuộc vào thỏa thuận mà các tổ chức viện trợ có thể đàm phán. Janssen cho biết ở các nước phát triển, sản phẩm này có thể có giá 1.000 đô la (685 bảng Anh) một đơn vị. 'Chúng tôi là một liên doanh với sứ mệnh xã hội. Chúng tôi nhận thức rằng sản phẩm mà chúng tôi hình dung chủ yếu sẽ được ứng dụng ở các nước đang phát triển và lĩnh vực nhân đạo và đây là cách chúng tôi sẽ tiến hành. Tuy nhiên, chúng tôi nhận ra rằng để trở thành một công ty khả thi, chúng tôi cần phải ghi nhớ một giới hạn cơ bản', ông nói.

G

Bản thân công ty có trụ sở tại Imperial College London, mặc dù Janssen, giám đốc điều hành của công ty, vẫn sống tại UAE. Cho đến nay, công ty đã huy động được 340.000 bảng Anh tiền tài trợ. Ông cho biết trong vòng hai năm, công ty đặt mục tiêu bán được 1.000 đơn vị mỗi tháng, chủ yếu trong lĩnh vực nhân đạo. Chúng dự kiến ​​sẽ được bán ở các khu vực như Úc, miền bắc Chile, Peru, Texas và California.

 

Xem thêm…

PART 2. CUỐN 15 TEST 2

19:34 |

 

A

The passenger pigeon was a legendary species. Flying in vast numbers across North America, with potentially many millions within a single flock, their migration was once one of nature’s great spectacles. Sadly, the passenger pigeon’s existence came to an end on 1 September 1914, when the last living specimen died at Cincinnati Zoo. Geneticist Ben Novak is lead researcher on an ambitious project which now aims to bring the bird back to life through a process known as ‘de-extinction’. The basic premise involves using cloning technology to turn the DNA of extinct animals into a fertilised embryo, which is carried by the nearest relative still in existence – in this case, the abundant band-tailed pigeon – before being born as a living, breathing animal. Passenger pigeons are one of the pioneering species in this field, but they are far from the only ones on which this cutting-edge technology is being trialled.

B

In Australia, the thylacine, more commonly known as the Tasmanian tiger, is another extinct creature which genetic scientists are striving to bring back to life. ‘There is no carnivore now in Tasmania that fills the niche which thylacines once occupied,’ explains Michael Archer of the University of New South Wales. He points out that in the decades since the thylacine went extinct, there has been a spread in a ‘dangerously debilitating’ facial tumour syndrome which threatens the existence of the Tasmanian devils, the island’s other notorious resident. Thylacines would have prevented this spread because they would have killed significant numbers of Tasmanian devils. ‘If that contagious cancer had popped up previously, it would have burned out in whatever region it started. The return of thylacines to Tasmania could help to ensure that devils are never again subjected to risks of this kind.’

C

If extinct species can be brought back to life, can humanity begin to correct the damage it has caused to the natural world over the past few millennia? ‘The idea of de-extinction is that we can reverse this process, bringing species that no longer exist back to life,’ says Beth Shapiro of University of California Santa Cruz’s Genomics Institute. ‘I don’t think that we can do this. There is no way to bring back something that is 100 per cent identical to a species that went extinct a long time ago.’ A more practical approach for long-extinct species is to take the DNA of existing species as a template, ready for the insertion of strands of extinct animal DNA to create something new; a hybrid, based on the living species, but which looks and/or acts like the animal which died out.

D

This complicated process and questionable outcome begs the question: what is the actual point of this technology? ‘For us, the goal has always been replacing the extinct species with a suitable replacement,’ explains Novak. ‘When it comes to breeding, band-tailed pigeons scatter and make maybe one or two nests per hectare, whereas passenger pigeons were very social and would make 10,000 or more nests in one hectare.’ Since the disappearance of this key species, ecosystems in the eastern US have suffered, as the lack of disturbance caused by thousands of passenger pigeons wrecking trees and branches means there has been minimal need for regrowth. This has left forests stagnant and therefore unwelcoming to the plants and animals which evolved to help regenerate the forest after a disturbance. According to Novak, a hybridized band-tailed pigeon, with the added nesting habits of a passenger pigeon, could, in theory, re-establish that forest disturbance, thereby creating a habitat necessary for a great many other native species to thrive.

E

Another popular candidate for this technology is the woolly mammoth. George Church, professor at Harvard Medical School and leader of the Woolly Mammoth Revival Project, has been focusing on cold resistance, the main way in which the extinct woolly mammoth and its nearest living relative, the Asian elephant, differ. By pinpointing which genetic traits made it possible for mammoths to survive the icy climate of the tundra, the project’s goal is to return mammoths, or a mammoth-like species, to the area. ‘My highest priority would be preserving the endangered Asian elephant,’ says Church, ‘expanding their range to the huge ecosystem of the tundra. Necessary adaptations would include smaller ears, thicker hair, and extra insulating fat, all for the purpose of reducing heat loss in the tundra, and all traits found in the now extinct woolly mammoth.’ This repopulation of the tundra and boreal forests of Eurasia and North America with large mammals could also be a useful factor in reducing carbon emissions – elephants punch holes through snow and knock down trees, which encourages grass growth. This grass growth would reduce temperature, and mitigate emissions from melting permafrost.

F

While the prospect of bringing extinct animals back to life might capture imaginations, it is, of course, far easier to try to save an existing species which is merely threatened with extinction. ‘Many of the technologies that people have in mind when they think about de-extinction can be used as a form of “genetic rescue”,’ explains Shapiro. She prefers to focus the debate on how this emerging technology could be used to fully understand why various species went extinct in the first place, and therefore how we could use it to make genetic modifications which could prevent mass extinctions in the future. ‘I would also say there’s an incredible moral hazard to not do anything at all,’ she continues. ‘We know that what we are doing today is not enough, and we have to be willing to take some calculated and measured risks.’

 

A

Chim bồ câu hành khách là một loài chim huyền thoại. Bay với số lượng lớn khắp Bắc Mỹ, với khả năng lên tới hàng triệu con trong một đàn, cuộc di cư của chúng từng là một trong những cảnh tượng tuyệt vời của thiên nhiên. Đáng buồn thay, sự tồn tại của chim bồ câu hành khách đã kết thúc vào ngày 1 tháng 9 năm 1914, khi mẫu vật sống cuối cùng chết tại Vườn thú Cincinnati. Nhà di truyền học Ben Novak là nhà nghiên cứu chính trong một dự án đầy tham vọng hiện nhằm mục đích đưa loài chim này trở lại cuộc sống thông qua một quá trình được gọi là 'hồi sinh'. Tiền đề cơ bản liên quan đến việc sử dụng công nghệ nhân bản để biến DNA của các loài động vật đã tuyệt chủng thành phôi đã thụ tinh, được mang theo bởi họ hàng gần nhất vẫn còn tồn tại - trong trường hợp này là loài bồ câu đuôi băng dồi dào - trước khi được sinh ra như một loài động vật sống, thở. Chim bồ câu hành khách là một trong những loài tiên phong trong lĩnh vực này, nhưng chúng không phải là loài duy nhất được thử nghiệm công nghệ tiên tiến này.

B

Ở Úc, thylacine, thường được gọi là hổ Tasmania, là một loài động vật đã tuyệt chủng khác mà các nhà khoa học di truyền đang nỗ lực hồi sinh. ‘Hiện tại không có loài ăn thịt nào ở Tasmania có thể thay thế được hốc sinh thái mà loài thylacine từng chiếm giữ’, Michael Archer thuộc Đại học New South Wales giải thích. Ông chỉ ra rằng trong nhiều thập kỷ kể từ khi loài thylacine tuyệt chủng, đã có sự lây lan của hội chứng khối u trên mặt ‘gây suy nhược nguy hiểm’ đe dọa sự tồn tại của loài quỷ Tasmania, loài cư trú khét tiếng khác của hòn đảo. Thylacine có thể ngăn chặn sự lây lan này vì chúng đã giết chết một số lượng lớn quỷ Tasmania. ‘Nếu căn bệnh ung thư truyền nhiễm đó xuất hiện trước đó, nó sẽ bùng phát ở bất kỳ khu vực nào mà nó bắt đầu. Sự trở lại của loài thylacine ở Tasmania có thể giúp đảm bảo rằng loài quỷ không bao giờ phải chịu những rủi ro như thế này nữa.’

C

Nếu các loài đã tuyệt chủng có thể được hồi sinh, liệu loài người có thể bắt đầu khắc phục thiệt hại mà chúng đã gây ra cho thế giới tự nhiên trong vài thiên niên kỷ qua không? Beth Shapiro thuộc Viện nghiên cứu hệ gen của Đại học California Santa Cruz cho biết: ‘Ý tưởng về sự phục hồi tuyệt chủng là chúng ta có thể đảo ngược quá trình này, đưa các loài không còn tồn tại trở lại cuộc sống’. ‘Tôi không nghĩ rằng chúng ta có thể làm được điều này. Không có cách nào để mang lại thứ gì đó giống hệt 100% với loài đã tuyệt chủng từ lâu.’ Một cách tiếp cận thực tế hơn đối với các loài đã tuyệt chủng từ lâu là lấy DNA của các loài hiện có làm khuôn mẫu, sẵn sàng để chèn các chuỗi DNA động vật đã tuyệt chủng để tạo ra thứ gì đó mới; một loài lai, dựa trên các loài còn sống, nhưng trông và/hoặc hoạt động giống như loài động vật đã tuyệt chủng.

D

Quá trình phức tạp này và kết quả đáng ngờ đặt ra câu hỏi: mục đích thực sự của công nghệ này là gì? ‘Đối với chúng tôi, mục tiêu luôn là thay thế các loài đã tuyệt chủng bằng một loài thay thế phù hợp,’ Novak giải thích. ‘Khi nói đến việc sinh sản, chim bồ câu đuôi băng phân tán và có thể làm một hoặc hai tổ trên một hecta, trong khi chim bồ câu hành khách rất hòa đồng và có thể làm 10.000 tổ trở lên trên một hecta.’ Kể từ khi loài chim quan trọng này biến mất, các hệ sinh thái ở miền đông Hoa Kỳ đã bị ảnh hưởng, vì việc không bị xáo trộn do hàng nghìn con chim bồ câu hành khách phá hoại cây cối và cành cây có nghĩa là nhu cầu tái sinh là rất ít. Điều này khiến rừng trở nên trì trệ và do đó không chào đón các loài thực vật và động vật đã tiến hóa để giúp tái sinh rừng sau khi bị xáo trộn. Theo Novak, một con chim bồ câu đuôi băng lai, với thói quen làm tổ bổ sung của chim bồ câu hành khách, về mặt lý thuyết, có thể tái lập sự xáo trộn của khu rừng đó, do đó tạo ra môi trường sống cần thiết cho rất nhiều loài bản địa khác phát triển mạnh.

E

Một ứng cử viên phổ biến khác cho công nghệ này là voi ma mút lông. George Church, giáo sư tại Trường Y khoa Harvard và là người đứng đầu Dự án Phục hồi Voi ma mút Lông xoăn, đã tập trung vào khả năng chống chịu lạnh, cách chính mà voi ma mút lông xoăn đã tuyệt chủng và họ hàng gần nhất còn sống của nó, voi châu Á, khác nhau. Bằng cách xác định những đặc điểm di truyền nào giúp voi ma mút có thể sống sót trong khí hậu băng giá của vùng lãnh nguyên, mục tiêu của dự án là đưa voi ma mút hoặc một loài giống voi ma mút trở lại khu vực này. Church cho biết: 'Ưu tiên cao nhất của tôi là bảo tồn loài voi châu Á đang có nguy cơ tuyệt chủng', 'mở rộng phạm vi của chúng đến hệ sinh thái rộng lớn của vùng lãnh nguyên. Những thích nghi cần thiết sẽ bao gồm tai nhỏ hơn, lông dày hơn và mỡ cách nhiệt bổ sung, tất cả đều nhằm mục đích giảm mất nhiệt ở vùng lãnh nguyên và tất cả các đặc điểm được tìm thấy ở loài voi ma mút lông xoăn hiện đã tuyệt chủng'. Việc tái tạo quần thể các loài động vật có vú lớn ở vùng lãnh nguyên và rừng phương bắc của Âu Á và Bắc Mỹ cũng có thể là một yếu tố hữu ích trong việc giảm lượng khí thải carbon - voi đục lỗ trên tuyết và quật đổ cây, điều này thúc đẩy cỏ phát triển. Sự phát triển của cỏ này sẽ làm giảm nhiệt độ và giảm thiểu khí thải từ lớp đất đóng băng vĩnh cửu đang tan chảy.

F

Mặc dù viễn cảnh đưa các loài động vật đã tuyệt chủng trở lại cuộc sống có thể thu hút trí tưởng tượng, nhưng tất nhiên, việc cố gắng thực hiện dễ dàng hơn nhiều cứu một loài hiện có chỉ đơn thuần là bị đe dọa tuyệt chủng. 'Nhiều công nghệ mà mọi người nghĩ đến khi họ nghĩ về sự tuyệt chủng có thể được sử dụng như một hình thức "giải cứu di truyền",' Shapiro giải thích. Cô ấy thích tập trung cuộc tranh luận vào cách công nghệ mới nổi này có thể được sử dụng để hiểu đầy đủ lý do tại sao nhiều loài khác nhau đã tuyệt chủng ngay từ đầu, và do đó làm thế nào chúng ta có thể sử dụng nó để thực hiện các sửa đổi di truyền có thể ngăn chặn sự tuyệt chủng hàng loạt trong tương lai. 'Tôi cũng muốn nói rằng có một mối nguy hiểm đạo đức đáng kinh ngạc nếu không làm gì cả,' cô ấy tiếp tục. 'Chúng ta biết rằng những gì chúng ta đang làm ngày hôm nay là không đủ, và chúng ta phải sẵn sàng chấp nhận một số rủi ro được tính toán và đo lường.'

 

Xem thêm…

CUỐN 15 TEST 2

19:13 |

 The automotive sector is well used to adapting to automation in manufacturing.

Ngành công nghiệp ô tô vốn quen thuộc với việc thích ứng với cơ chế tự động hóa trong sản xuất.

 

The implementation of robotic car manufacture from the 1970s onwards led to significant cost savings and improvements in the reliability and flexibility of vehicle mass production.

Việc thực hiện sản xuất xe hơi tự lái có từ những năm 1970 trở đi đã giúp tiết kiệm chi phí đáng kể và cải thiện độ tin cậy cũng như tính linh hoạt trong sản xuất xe số lượng lớn.

 

A new challenge to vehicle production is now on the horizon and, again, it comes from automation.

Một thử thách mới cho việc sản xuất xe đang tới, và một lần nữa, nó bắt nguồn từ cơ chế tự động hóa.

 

However, this time it is not to do with the manufacturing process, but with the vehicles themselves.

Tuy nhiên, lần này vấn đề không phải là với quy trình sản xuất, mà là với chính những chiếc xe.

 

Research projects on vehicle automation are not new.

Dự án nghiên cứu cơ chế tự động của xe không còn mới mẻ.

 

Vehicles with limited self-driving capabilities have been around for more than 50 years, resulting in significant contributions towards driver assistance systems.

Các phương tiện với khả năng tự lái hạn chế đã tồn tại hơn 50 năm, mang lại thành quả là những đóng góp đáng kể cho hệ thống hỗ trợ người lái.

 

But since Google announced in 2010 that it had been trialling self-driving cars on the streets of California, progress in this field has quickly gathered pace.

Nhưng kể từ khi Google thông báo vào năm 2010 rằng họ đang thử nghiệm những chiếc xe tự lái trên đường phố California, sự tiến triển trong mảng này đã nhanh chóng nắm bắt được tốc độ.

 

There are many reasons why technology is advancing so fast.

Có nhiều lý do giải thích tại sao công nghệ lại đang tiến bộ nhanh chóng đến vậy.

 

One frequently cited motive is safety; indeed, research at the UK’s Transport Research Laboratory has demonstrated that more than 90 percent of road collisions involve human error as a contributory factor, and it is the primary cause in the vast majority.

Lý do đầu tiên thường được nhắc là sự an toàn; thật vậy, nghiên cứu tại Phòng thí nghiệm Nghiên cứu Đường bộ Anh Quốc mô tả rằng hơn 90% các vụ va chạm đường bộ có yếu tố góp phần liên quan đến lỗi do con người, và là nguyên nhân chính cho phần lớn các vụ va chạm.

 

Automation may help to reduce the incidence of this.

Cơ chế tự động hóa có thể giúp giảm tần suất các vụ việc.

 

Another aim is to free the time people spend driving for other purposes.

Một mục tiêu khác là để giải phóng thời gian con người sử dụng để lái xe cho các mục đích khác.

 

If the vehicle can do some or all of the driving, it may be possible to be productive, to socialise or simply to relax while automation systems have responsibility for safe control of the vehicle.

Nếu xe cộ có thể làm một vài hay tất cả công việc lái xe, việc trở nên năng suất, giao lưu xã hội, hoặc đơn giản là thư giãn trong khi hệ thống tự lái chịu trách nhiệm kiểm soát an toàn cho phương tiện là có thể khả thi. .

 

If the vehicle can do the driving, those who are challenged by existing mobility models - such as older or disabled travellers - may be able to enjoy significantly greater travel autonomy.

Nếu xe cộ có thể tự lái, những người gặp khó khăn với các phương tiện đi lại hiện tại – như là người già và người khuyết tật – giờ đây có thể tận hưởng việc tự chủ đi lại nhiều hơn đáng kể.

 

Beyond these direct benefits, we can consider the wider implications for transport and society, and how manufacturing processes might need to respond as a result.

Ngoài những lợi ích trực tiếp này, chúng ta có thể xem xét các tác động rộng hơn đối với ngành vận chuyển và xã hội, và kéo theo đó là các quy trình sản xuất có thể cần phải đáp ứng như thế nào.

 

At present, the average car spends more than 90 percent of its life parked.

Hiện tại, một chiếc xe ô tô tầm trung dành hơn 90% cuộc đời của mình bị đậu ở bãi xe.

 

Automation means that initiatives for car-sharing become much more viable, particularly in urban areas with significant travel demand.

Cơ chế tự động có nghĩa là những sáng kiến cho việc chia sẻ xe trở nên khả thi hơn, đặc biệt là ở các khu vực thành thị với nhu cầu đi lại cao.

 

If a significant proportion of the population choose to use shared automated vehicles, mobility demand can be met by far fewer vehicles.

Nếu một tỉ lệ dân số đáng kể chọn chia sẻ phương tiện lái tự động, nhu cầu di chuyển có thể được đáp ứng với một lượng phương tiện ít hơn nhiều.

 

The Massachusetts Institute of Technology investigated automated mobility in Singapore, finding that fewer than 30 percent of the vehicles currently used would be required if fully automated car sharing could be implemented.

Viện công nghệ Massachusetts đã khảo sát về hình thức di chuyển tự động ở Singapore, họ nhận thấy rằng chỉ cần đến ít hơn 30% lượng phương tiện đang được sử dụng nếu việc dùng chung xe tự động hoàn toàn được thực hiện.

 

If this is the case, it might mean that we need to manufacture far fewer vehicles to meet demand.

Nếu điều này xảy ra, nó có nghĩa rằng chúng ta cần sản xuất ít phương tiện hơn nhiều để đáp ứng nhu cầu.

 

However, the number of trips being taken would probably increase, partly because empty vehicles would have to be moved from one customer to the next.

Tuy nhiên, số lượng các chuyến đi có lẽ sẽ tăng lên, một phần vì các phương tiện trống sẽ phải được chuyển từ khách hàng này đến khách hàng khác.

 

Modelling work by the University of Michigan Transportation Research Institute suggests automated vehicles might reduce vehicle ownership by 43 percent, but that vehicles’ average annual mileage would double as a result.

Công tác mô hình bởi Viện Nghiên cứu Giao thông vận tải thuộc Đại học Michigan đề xuất rằng các phương tiện tự động có thể giảm quyền sở hữu xe cộ 43%, nhưng kết quả là số dặm trung bình hàng năm của các phương tiện sẽ tăng gấp đôi.

 

As a consequence, each vehicle would be used more intensively, and might need replacing sooner.

Hệ quả là, mỗi chiếc xe sẽ được sử dụng với cường độ lớn hơn nhiều , và có thể cần thay thế sớm hơn.

 

This faster rate of turnover may mean that vehicle production will not necessarily decrease.

Tốc độ xoay vòng nhanh hơn có nghĩa là việc sản xuất xe sẽ không nhất thiết phải cắt giảm.

 

Automation may prompt other changes in vehicle manufacture.

Tự động hóa có thể thúc đẩy sự thay đổi khác trong việc sản xuất phương tiện đi lại.

 

If we move to a model where consumers are tending not to own a single vehicle but to purchase access to a range of vehicles through a mobility provider, drivers will have the freedom to select one that best suits their needs for a particular journey, rather than making a compromise across all their requirements.

Nếu chúng ta chuyển sang một mô hình mà khách hàng có xu hướng không sở hữu một chiếc xe riêng lẻ mà mua quyền truy cập vào một loạt các phương tiện thông qua nhà cung cấp lưu động, người lái xe sẽ được tự do lựa chọn chiếc xe phù hợp nhất với nhu cầu của họ cho mỗi hành trình cụ thể, thay vì thực hiện một thỏa hiệp giữa các yêu cầu chồng chéo của họ.

 

Since, for most of the time, most of the seats in most cars are unoccupied, this may boost production of a smaller, more efficient range of vehicles that suit the needs of individuals.

Bởi vì, phần lớn thời gian, hầu hết chỗ ngồi trên hầu hết ô tô bị bỏ không, điều này có thể đẩy mạnh việc sản xuất các loại xe nhỏ hơn nhưng hiệu quả hơn phù hợp với nhu cầu các cá nhân.

 

Specialised vehicles may then be available for exceptional journeys, such as going on a family camping trip or helping a son or daughter move to university.

Các phương tiện chuyên dụng có thể có sẵn cho các hành trình đặc biệt, như là đi cắm trại gia đình hoặc giúp đỡ con trai hay con gái của họ di chuyển đến trường đại học.

 

There are a number of hurdles to overcome.

Có một số trở ngại cần vượt qua.

 

In delivering automated vehicles to our roads.

Trong việc đưa các phương tiện tự động xuống các đường phố.

 

These include the technical difficulties in ensuring that the vehicle works reliably in the infinite range of traffic, weather and road situations it might encounter; the regulatory challenges in understanding how liability and enforcement might change when drivers are no longer essential for vehicle operation; and the societal changes that may be required for communities to trust and accept automated vehicles as being a valuable part of the mobility landscape.

Chúng bao gồm những khó khăn về kỹ thuật trong việc đảm bảo các phương tiện hoạt động ổn định trong vô số các tình huống giao thông, thời tiết và điều kiện đường sá nó có thể gặp phải; những thách thức về quy chế trong việc hiểu rõ nghĩa vụ và việc thực thi có thể thay đổi như thế nào khi người lái xe không còn quan trọng trong việc vận hành phương tiện; cũng như những thay đổi xã hội cần thiết để cộng đồng tin tưởng và chấp nhận phương tiện tự lái như một phần giá trị trong bức tranh của chuyển động.

 

It’s clear that there are many challenges that need to be addressed but, through robust and targeted research, these can most probably be conquered within the next 10 years.

Rõ ràng rằng có nhiều thách thức cần được giải quyết, nhưng, thông qua nghiên cứu thiết thực và có mục tiêu, những thách thức này có lẽ sẽ được chinh phục trong vòng 10 năm tới.

 

Mobility will change in such potentially significant ways and in association with so many other technological developments, such as telepresence and virtual reality, that it is hard to make concrete predictions about the future.

Việc đi lại sẽ thay đổi theo những cách vượt bậc đầy tiềm năng và kết hợp với nhiều phát triển công nghệ khác, như là hội họp từ xa và thực tế ảo, thật khó để dự đoán cụ thể về tương lai.

 

However, one thing is certain: change is coming, and the need to be flexible in response to this will be vital for those involved in manufacturing the vehicles that will deliver future mobility.

Tuy nhiên, một điều chắc chắn là, nhu cầu linh hoạt để đáp ứng điều này sẽ trở nên quan trọng đối với những nhà sản xuất phương tiện sẽ mang đến sự lưu động của tương lai.

 

 

Xem thêm…

Copyright ©THT - Được biên soạn và sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau.
Confession | Linkcenter | khoa học tâm linh | Kho tài liệu hay |