For
millennia, the coconut has been central to the lives of Polynesian and Asian
peoples.
Từ hàng ngàn
năm trước, cây dừa đã trở thành trung tâm đời sống của người Polynesian và
người châu Á.
In the
western world, on the other hand, coconuts have always been exotic and unusual,
sometimes rare.
Trong khi
đó, đối với các quốc gia Phương Tây thì cây dừa lại là một loại cây khác thường
và lạ lùng, đôi khi được coi là hiếm.
The Italian
merchant traveller Marco Polo apparently saw coconuts in South Asia
in the late 13th century, and among the mid-14th-century travel writings
of Sir John Mandeville there is mention of ‘great Notes of Ynde’ (great Nuts of
India).
Một thương
gia người Ý Marco Polo dường như đã phát hiện ra cây dừa ở Nam Á vào
trong khoảng cuối của thế kỷ 13, giữa thế kỷ 14 ở bút ký du lịch của
ngài John Mandeville cũng có đề cập đến dừa là “ loại hạt tuyệt hảo của Ấn Độ”
Today,
images of palm-fringed tropical beaches are cliches in the west to
sell holidays, chocolate bars, fizzy drinks and even romance.
Ngày nay, ở
những nước phía Tây, hình ảnh những rặng dừa bên bờ biển nhiệt đới đã trở
thành hình mẫu để bán trong các dịp lễ hội, trên những thỏi socola,
đồ uống có gas và thậm chí biểu tượng của sự lãng mạn.
Typically,
we envisage coconuts as brown cannonballs that, when opened, provide
sweet white flesh.
Thông
thường, chúng ta hình dung dừa là một quả cầu màu nâu mà khi bổ ra sẽ
cho ta phần cùi trắng ngọt bên trong.
But we see
only part of the fruit and none of the plant from which they come.
Tuy nhiên
chúng ta mới chỉ nhìn được một phần của loại quả này nhưng đều không biết được
các bộ phận còn lại như thế nào.
The coconut
palm has a smooth, slender, grey trunk, up to 30 metres tall.
Cây dừa có
thân nhỏ màu xám, trơn tru và có chiều cao lên tới 30 mét.
This is an
important source of timber for building houses, and is increasingly being used
as a replacement for endangered hardwoods in the furniture construction
industry.
Đây là một
nguồn gỗ quan trọng trong việc xây dựng nhà cửa, và ngày càng được sử dụng
nhiều như một vật liệu thay thế cho nguồn gỗ đang cạn kiệt trong ngành công
nghiệp đồ nội thất.
The trunk is
surmounted by a rosette of leaves, each of which may be up to six metres long.
Thân
cây được bao bọc bởi những cái lá xếp theo hình cánh hoa hồng, mỗi lá
có thể có độ dài lên tới 6 mét.
The leaves
have hard veins in their centres which, in many parts of the world, are
used as brushes after the green part of the leaf has been stripped away.
Lá dừa có
các vân lá rất cứng ở trung tâm, ở nhiều nơi trên thế giới, chúng có
thể được dùng làm bàn chải sau khi phần lá xanh đã được tước đi.
Immature
coconut flowers are tightly clustered together among the leaves at the top
of the trunk.
Hoa dừa non
nở thành từng cụm với nhau giữa các lá ở trên đỉnh của thân cây.
The flower
stems may be tapped for their sap to produce a drink, and
the sap can also be reduced by boiling to produce a type of sugar
used for cooking.
Cuống hoa
dừa có thể được rút nhựa để sản xuất đồ uống, và nhựa đó cũng có thể bị giảm đi
bằng cách đun sôi để tạo ra đường dùng trong chế biến thức ăn.
Coconut
palms produce as many as seventy fruits per year, weighing more than a kilogram
each.
Cây dừa ra
quả khoảng 70 trái mỗi năm, trọng lượng vào khoảng hơn 1 kg mỗi quả.
The wall of
the fruit has three layers: a waterproof outer layer,
a fibrous middle layer and a hard, inner layer.
Vỏ của trái
dừa gồm 3 lớp: lớp vỏ bên ngoài chống nước, lớp xơ ở giữa và một lớp cỗ
cứng cuối cùng.
The
thick fibrous middle layer produces coconut fibre, ‘coir’, which has
numerous uses and is particularly important in manufacturing ropes.
Lớp xơ mỏng
ở giữa cung cấp xơ dừa, hay còn gọi là xơ, có rất nhiều công dụng và là một
nguyên liệu quan trọng trong sản xuất dây thừng.
The
woody innermost layer, the shell, with its three prominent ‘eyes’,
surrounds the seed.
Lớp
gỗ trong cùng hay còn gọi là vỏ với 3 lỗ đậm màu giống như mắt, bao
quanh cùi dừa.
An important
product obtained from the shell is charcoal, which is widely used in
various industries as well as in the home as a cooking fuel.
Một sản phẩm
quan trọng được chế biến từ vỏ dừa là than củi, thứ được sử dụng rộng rãi trong
rất nhiều ngành công nghiệp cũng như dùng tại nhà như nhiên liệu để nấu ăn.
When broken
in half, the shells are also used as bowls in many parts of Asia.
Khi bổ đôi
trái dừa, vỏ dừa cũng có thể được sử dụng làm bát tại rất nhiều quốc gia ở Châu
Á.
Inside the
shell are the nutrients (endosperm) needed by the developing seed.
Bên trong
lớp vỏ là rất nhiều dưỡng chất (nội nhũ) cần thiết cho sự phát triển của trái
dừa.
Initially,
the endosperm is a sweetish liquid, coconut water, which is
enjoyed as a drink, but also provides the hormones which encourage other plants
to grow more rapidly and produce higher yields.
Ban
đầu, nội nhũ là một chất lỏng có vị ngọt, hay gọi là nước dừa,
thứ được dùng như đồ uống nhưng nó cũng đồng thời cung cấp hooc mon kích thích
cây phát triển nhanh hơn và tạo năng suất cao hơn.
As the fruit
matures, the coconut water gradually solidifies to form the brilliant
white, fat-rich, edible flesh or meat.
Khi trái dừa
già hơn, nước dừa đặc dần để hình thành một lớp thịt trắng nhiều
dưỡng chất, nhiều chất béo.
Dried
coconut flesh, ‘copra’, is made into coconut oil and coconut milk, which
are widely used in cooking in different parts of the world, as well as
in cosmetics.
Cùi dừa khô
được dùng để chế biến dầu dừa và sữa dừa, những sản phẩm này được sử
dụng rộng rãi trong nấu ăn cũng như mỹ phẩm ở khắp nơi trên thế giới.
A derivative of
coconut fat, glycerine, acquired strategic importance in a quite
different sphere, as Alfred Nobel introduced the world to his
nitroglycerine-based invention: dynamite.
Một dẫn
xuất trong chất béo dừa, glycerine, có tầm quan trọng chiến lược trong
nhiều lĩnh vực khác nhau,ví dụ như Alfred Nobel đã giới thiệu với thế
giới phát minh dựa vào nitroglycerine của mình: chất nổ.
Their
biology would appear to make coconuts the great maritime voyagers and
coastal colonizers of the plant world.
Cấu trúc
sinh học của nó xuất hiện để biến dừa trở thành “người đi biển” vĩ đại và một
“công dân biển” trong thế giới thực vật.
The large,
energy-rich fruits are able to float in water and tolerate salt, but cannot
remain viable indefinitely; studies suggest after about 110 days at sea
they are no longer able to germinate.
Loại quả to và
nhiều dưỡng chất có khả năng nổi trên mặt nước và chịu mặn nhưng không tồn
tại vô thời hạn, Khoa học đã chứng minh rằng sau khoảng 110 ngày trôi nổi
trên biển quả dừa không thể nảy mầm được nữa.
Literally cast
onto desert island shores, with little more than sand to grow in and
exposed to the full glare of the tropical sun, coconut seeds are able
to germinate and root.
Chính xác là
khi gieo xuống bờ của sa mạc, với một ít cát để có thể phát triển và
tiếp xúc với ánh nắng mặt trời chói lóa của vùng nhiệt đới, hạt giống
của cây dừa có thể đâm chồi và nảy mầm.
The air
pocket in the seed, created as the endosperm solidifies, protects
the embryo.
Các túi khí
bên trong hạt giống tạo ra một lớp nội nhũ cố định bảo vệ mầm
cây.
In addition,
the fibrous fruit wall that helped it to float during
the voyage stores moisture that can be taken up by the roots of the
coconut seedling as it starts to grow.
Thêm vào đó,
lớp xơ dừa giúp quả dừa có thể trôi nổi trong suốt quá trình dữ ẩm trên biển mà
có thể được đưa xuống bởi rễ khi hạt bắt đầu nảy mầm.
There have
been centuries of academic debate over the origins of the coconut.
Phải mất đến
hàng thế kỷ người ta tranh cãi về nguồn gốc của dừa.
There were
no coconut palms in West Africa, the Caribbean or the east coast of the
Americas before the voyages of the European explorers Vasco da Gama and
Columbus in the late 15th and early 16th centuries.
Không có cây
dừa nào ở Tây Phi, vùng biển Ca-ri-bê hay vùng biển phía Đông Mỹ trước những chuyến
hành trình của các nhà thám hiểm Châu Âu Vasco da Gama và Columbus vào cuối thế
kỷ 15 đầu thế kỷ 16.
16th century
trade and human migration patterns reveal that Arab traders and European
sailors are likely to have moved coconuts from South and Southeast Asia to
Africa and then across the Atlantic to the east coast of America.
Mô hình
thương mại và di cư ở thế kỷ 16 đã tiết lộ rằng một số thương nhân người Ả Rập
và thủy thủ Châu Âu có vẻ như đã mang hạt giống của dừa từ Nam và Đông Nam Á
đến châu Phi và sau đó băng qua Đại Tây Dương để đến bờ biển phía Đông của nước
Mỹ.
But the
origin of coconuts discovered along the west coast of America by 16th century
sailors has been the subject of centuries of discussion.
Nhưng nguồn
gốc của cây dừa được khám phá ở dọc bờ biển phía Đông nước Mỹ bởi các thủy thủ
Mỹ ở thế kỷ 16 vẫn là đề tài tranh luận trong hàng thế kỷ.
Two diametrically
opposed origins have been proposed: that they came from Asia, or that they
were native to America.
Hai nguồn
gốc trái ngược nhau hoàn toàn đã được đề cập đến đó là: cây dừa có
nguồn gốc từ Châu Á hay là nó bản chất đã tồn tại ở Nước Mỹ.
Both
suggestions have problems.
Cả hai ý
kiến đều có nhiều vấn đề.
In Asia,
there is a large degree of coconut diversity and evidence of millennia of human
use - but there are no relatives growing in the wild.
Ở Châu Á, có
một quần thể cây dừa rộng lớn và những bằng chứng của việc con người sử dụng
loại quả này từ hàng triệu năm tuy nhiên lại không có bất cứ cây họ dừa mọc tự
nhiên nào cả.
In America,
there are close coconut relatives, but no evidence that coconuts
are indigenous.
Ở Mỹ, có
nhiều họ hàng dừa nhưng lại không có bằng chứng rằng dừa là trái cây bản
địa.
These
problems have led to the intriguing suggestion that coconuts
originated on coral islands in the Pacific and were dispersed from there.
Những vấn đề
này dẫn đến một đề xuất thú vị hơn là nguồn gốc của dừa là từ
một quần đảo san hô ở Thái Bình Dương và được phân tán
từ đó.
0 Nhận xét